Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2024

Thị Đao Hoàn Ca 視刀環歌 - Lưu Vũ Tích(Trung Đường)


Lưu Vũ Tích 劉禹錫 (772-842) tự Mộng Đắc 夢得, người Bành Thành (nay là huyện Đông Sơn, tỉnh Giang Tô) đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 9 (793), làm giám sát ngự sử đời Đức Tông. Thời Thuận Tông cùng tham dự vào những chủ trương chính trị tiến bộ cùng Vương Thúc Văn, Liễu Tông Nguyên, sau Vương Thúc Văn bị bọn cường quyền gièm pha, ông cũng bị đổi thành Lãng Châu thứ sử. Ông làm từ hay dùng tục ngữ địa phương, Bạch Cư Dị từng gọi ông là thi hào. Tác phẩm có Lưu Vũ Tích tập.
Mời các bạn đọc bài này đề biết quan niệm của Lưu Vũ Tích về tình yêu.

Nguyên tác Dịch âm

視刀環歌 Thị Đao Hoàn Ca

常恨言語淺 Thường hận ngôn ngữ thiển,
不如人意深 Bất như nhân ý thâm.
今朝兩相視 Kim triêu lưỡng tương thị,
脈脈萬重心 Mạch mạch vạn trùng tâm.

Dịch nghĩa

Bài Hát Trông Con Dao Và Cái Vòng

Thường thường khi ân hận thì lời nói nông cạn,
Nhưng ý nghĩ thì dồi dào.
Sáng nay đôi bên nam nữ nhìn nhau.
Mới thấy chỉ cần nhìn nhau đăm đăm cũng bằng vạn lời tâm tình.

Đao là con dao, trong bài ngụ ý người nam, hoàn là cái vòng ngọc, ngụ ý người nữ.

Dịch thơ

Bài Hát Trông Con Dao Và Cái Vòng

Thường hận lời nông cạn,
Thương ý nghĩ thâm sâu.
Ngồi nhìn nhau đăm đắm,
Bằng vạn lời trao nhau.


Lời bàn 

Con dao và cái vòng là hai vật khác hẳn nhau, lời nói và ý nghĩ cũng thế. Tác giả quan niệm rằng ngôn ngữ nhiều khi không diễn tả hết được tình yêu. Nam nữ chỉ cần đối diện, lặng lẽ nhìn nhau, sẽ hiểu nhau sâu đậm hơn.

Con Cò
***
Bài Ca Nhìn Vòng Trên Đao.

Khi giận nói nông cạn,
Không sâu đủ ý mình.
Sáng nhìn nhau đối mặt,
Thấu hiểu vạn chân tình.


Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Oct. 5/2024.
***
Bài Ca Chiếc Vòng Trên Đao

Lúc giận thốt càng thật hợt hời
Nói rồi mới thấy tiếc buông lời
Hôm nay đôi bạn nhìn nhau mãi
Tình cảm trong tim rạng sáng ngời

Thanh Vân
***
Bài Ca Dao Và Cái Vòng


Khi giận thì nên kiệm lời
Dồi dào ý nghĩ… tạm thời lặng thinh
Hai người trao ánh mắt nhìn
Mà như đã nói vạn nghìn lời yêu


Kiều Mộng Hà
Oct.07.2024
***
Đây là một bài nhạc phủ tân đề. Theo Hán thư, tích Lý Lăng 李陵 (cháu Lý Quảng 李廣) đem 5000 quân đánh Hung Nô (năm 99 tr.CN), đi sâu vào đất địch. Bị vây, quân lính chết gần hết, ngựa bị thương phải đầu hàng. Hán Vũ Đế nghe tin rất phẫn nộ, ra lệnh giết ba họ của Lý Lăng. Đến đời Chiêu Đế (đã hoà hoãn với Hung Nô), bạn đồng liêu của Lý Lăng là Quắc Quang 霍光, Thượng Quan Kiệt 上官桀 phụ chính muốn xin cho Lý Lăng về, sai Nhậm Lập Chính 任立政 (cũng là bạn của Lý Lăng) làm sứ giả qua kêu gọi Lý Lăng trở về. Lúc ngồi nói chuyện, vì có người Hán là Vệ Luật 衛律 làm quan cho Hung Nô cùng ngồi, không tiện nói thẳng nên Nhậm Lập Chính đưa mắt nhìn đao của Lý Lăng và sờ những cái vòng trên sống đao để thăm dò ý tứ. Vòng là “hoàn” 環, phát âm giống “hoàn” 還 (trở về), ý muốn kêu Lý Lăng trở về. Lý Lăng biết ý nhưng không trở về, vì nhục nhã và do ba họ đã bị giết hết. Về sau chữ “đao hoàn” 刀環 dùng để ám chỉ đến chuyện hồi hương. Bài thơ này được viết khi tác giả đang bị biếm trích, thông qua hình ảnh đôi nam nữ để tỏ nỗi lòng mong muốn trở về.
(Trích từ Thi Viện)

Bài Ca Nhìn Đao Vòng 

Thường hận lời nông cạn
Chẳng như ý thẳm sâu
Sáng nay đôi trẻ gặp
Nhìn đắm đuối, tâm đầu!


Lộc Bắc

***
Nguyên tác:  Phiên âm:                           Dịch thơ:

視刀環歌 Thị Đao Hoàn Ca Ngắm Vòng Đại Đao
劉禹錫       Lưu Vũ Tích

常恨言語淺 Thường hận ngôn ngữ thiển Lúc giận lời hời hợt,
不如人意深 Bất như nhân ý thâm            Ý nghĩa không thâm sâu.
今朝兩相視 Kim triêu lưỡng tương thị    Sáng nay nhìn trìu mến,
脈脈萬重心 Mạch mạch vạn trọng tâm   Vạn ý hợp tâm đầu.

Sách xưa có mộc bản bài thơ:

Lưu Tân Khách Văn Tập - Đường - Lưu Vũ Tích 劉賓客文集-唐-劉禹錫
Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 樂府詩集-宋-郭茂倩
Đường Thi Phẩm Vị - Minh - Cao? 唐詩品彙-明-高棅
Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄-清-徐倬

Ghi chú:

Thị Đao Hoàn Ca: tựa của một bài nhạc phủ dựa trên truyện Lý Quảng Tô Kiến trong Hán Thư
Hận: oán giận, căm thù, ân hận
Nhân ý: ý nghĩ cảm xúc của con người
Mạch mạch: sự xuất hiện tình cảm âm thầm qua ánh mắt hoặc con tim, đôi mắt trìu mến, và im lặng nhìn nhau
Vạn trùng: nhiều lớp, lớp lớp khi miêu tả núi non cảnh vật
Trọng tâm: điểm quy tụ sức nặng, sự quan trọng, hoặc phần chủ yếu của một vật hay một vấn đề; chữ 重 phiên âm trọng hoặc trùng cùng nghĩa như nhau. Trong bài thơ này, trọng có vẻ hợp lý hơn vì niêm với câu 1; ngoài ra trọng tâm là một từ kép, tiếng Việt không có từ trùng tâm. vạn trọng tâm: sự phức tạp của cảm xúc trong lòng

Dịch nghĩa:

Thị Đao Hoàn Ca Bài Hát Ngắm Vòng Đại Đao


Thường hận ngôn ngữ thiển Thường lời nói lúc giận giữ sẽ hời hợt,
Bất như nhân ý thâm Ý nghĩa không sâu sắc như mình muốn.
Kim triêu lưỡng tương thị Hôm nay hai chúng ta cùng nhìn nhau,
Mạch mạch vạn trùng tâm Tình cảm âm thầm bằng vạn lời tâm tình.

Contemplating the Rings on the Big Knife by Liu Yu Xi

When angry our words are empty/shallow,
Not carrying deep meanings we intended to.
This morning we looked at each other,
True love does not need thousands of words.

Tại sao đại đao có 9 vòng trên sống?

Vòng trên sống đao

Những chiếc vòng (thường là 9) trên một đại đao có nhiều công dụng thực tế. Chúng có 3 chức năng chính là cân bằng, đe dọa và bảo vệ.

Chúng là vật đối trọng, nhằm tăng quán tính của đao. Nếu vung hai thanh đao cùng tốc độ với trọng lượng khác nhau, vũ khí nặng hơn sẽ gây ra nhiều thiệt hại hơn. Chúng giúp điều chỉnh trọng tâm, do đó dễ kiểm soát đao hơn.

Người sử dụng lắc đao, tạo ra tiếng leng keng lớn, kết hợp với tiếng hét để hù dọa kẻ thù.
Những chiếc vòng trên sống đao cũng đóng vai trò bảo vệ người sử dụng bằng hai cách:

Không để đao ăn quá sâu bị kẹt vào vật chém, dễ bị đối phương gây thương tích khi cố gắng rút đao ra. Nếu đao có bị kẹt, dễ bám vào các vòng để rút đao ra.

Dùng những chiếc vòng để bám giữ những thanh kiếm mỏng dài của đối phương. Đây không phải là mục đích chính của những chiếc vòng trên đao, nhưng những người dùng đao với vòng lớn đã sử dụng chiến thuật này có lợi cho họ.
***
Phí Minh Tâm
***
Góp ý:


Thành ngữ "đao hoàn". 刀環=đao hoàn là tên các vòng (7 hoặc 9) trên sống đao bộ binh thời cổ (刀/đao là tĩnh từ bổ nghĩa cho danh từ 環/hoàn).

九環刀=cửu hoàn đao

và theo một lời giải thích trên một trang về vũ khí của Tàu thì vị trí của các vòng thay đổi tùy trường hợp - tùy lúc đao cầm dựng đứng lên hay lúc đang chém tới - và làm thay đổi trọng tâm của đao - gần cán hay gần mũi đao - nên việc sử dụng đao có hiệu lực hơn (và cũng có thể rằng vũ khí của địch vướng vào các vòng và không chém tuột xuống cán đao).

Hai chữ 環 (vòng) và 還 (trở về) là chữ viết cho các từ đồng âm /hoàn/ với các bộ 玉/辵 và âm 睘=hoàn. Đây là lý do mà chữ 環 hiện diện trong nhiều bài thơ nói về sự chia ly, nhung nhớ và chuyện mong người đi xa trở về. Người xưa có tục bẻ nhành 柳=liễu (từ đồng âm trong tiếng Tàu cho 留=lưu, nghĩa níu kéo, cầm giữ), lột một lớp vỏ cuốn lại thành 環=hoàn/vòng tặng người yêu để tỏ ý muốn mong thấy người trở về. Và trong trường hợp xa quê thời chiến thì người ta dùng thành ngữ 'đao hoàn' dể diễn tả sự nhớ quê hương.

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét