Thứ Tư, 6 tháng 4, 2022

Đằng Vương Các 滕王閣 - Vương Bột (Sơ Đường)

Vương Bột (王勃) (650–676), tự Tử An 子安, người Long Môn, Giáng Châu (ngày nay là Hà Tân, Sơn Tây) thời nhà Đường. Vương Bột được xem là một trong "Sơ Đường tứ kiệt" (bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường), 3 nhà thơ còn lại là: Dương Quýnh (杨炯), Lư Chiếu Lân (卢照邻) và Lạc Tân Vương (骆宾王).

Sơ Đường Tứ Kiệt 初唐四傑 là Vương Dương Lư Lạc 王楊盧駱, đó chính là Vương Bột 王勃, Dương Quýnh 楊炯, Lư Chiếu Lân 盧照鄰, và Lạc Tân Vương 駱賓王. Họ đều là những văn thi sĩ sống dưới thời Đường Cao Tông và Võ Hậu, họ đã bứt phá ra khỏi Cung Thể Thi của thời Lục Triều, mặc dù lúc đó có rất nhiều người chỉ trích bài bác cười chê, nhưng họ đã thành công trong việc phát triển và hoàn chỉnh thể Ngũ Ngôn Luật Thi trong buổi Sơ Đường.
Vương Bột sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.
Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).
Khoảng 675-676, lúc 27-28 tuổi, Vương Bột bị đắm thuyền, chết đuối ở biển Nam Hải trên đường sang Giao Chỉ thăm cha.

Nguyên Tác          Dịch âm

滕王閣 Đằng        Vương Các

滕王高閣臨江渚 Đằng Vương cao các lâm giang chử,
佩玉鳴鸞罷歌舞 Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
畫棟朝飛南浦雲 Hoạ đống triêu phi Nam phố vân,
珠簾暮捲西山雨 Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
閒雲潭影日悠悠 Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
物換星移幾度秋 Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
閣中帝子今何在 Các trung đế tử kim hà tại,
檻外長江空自流 Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.

Chú giải

臨 lâm: ở trên soi xuống, sát, gần kề.
渚 chử: bến nước, bãi nhỏ.
佩 bội: đeo (động từ).
鳴 minh: kêu, gảy, hót. 鸞 loan: cái chuông nhó bằng đồng đeo ở tay các vũ nữ. 鳴鸞 minh loan: cái lục lạc bằng đồng đeo ở tay các vũ nữ khi múa hát.
佩玉鳴鸞 bội ngọc minh loan: (vũ nữ) đeo ngọc và lục lạc bằng đồng ở cổ tay (khi múa hát).
渚 đống: cột trụ chính trong nhà.
捲 quyển: cuốn lại.
檻 hạm: hiên nhà.

Dịch nghĩa

Gác Đằng Vương

Gác Đằng Vương cao ngất đứng trên bãi sông,
Vũ nữ đeo ngọc cài chuông (trên cổ tay) thôi múa hát.
Cột vẽ những đám mây ở bến Nam đang bay lúc sáng sớm,
Cuốn rèm châu lại thì thấy mưa ở núi Tây lúc xế chiều.
Mây lững lờ ngày ngày vẫn in bóng trên đầm,
Vật đổi sao dời trải đã bao mùa thu.
Con vua (vẫn thường) ở trong gác nay ở chốn nào?
Ngoài hiên sông Trường Giang cứ chảy hoài không thôi.

Dịch thơ
Gác Đằng Vương

Đằng Vương cao ngất đứng ven sông,
Đeo ngọc cài chuông múa hát xong.
Cột vẽ phố Nam mây bay sáng,
Rèm châu cuốn lại thấy mưa chiều.
Mây trôi lơ lửng đầm soi nắng,
Vật đổi thu tàn đã mấy chiêu.
Con vua trong gác đâu rồi vậy?
Trước cửa Trường Giang chảy một chiều./.

Tiểu sử Đằng Vương Các 

Đằng Vương Các nổi tiếng từ thời Sơ Đường qua bài phú của Vương Bột 
Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hồng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương các. Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài từ, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài từ ngay bữa tiệc.

Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 19. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có đến mấy trăm dặm, sợ không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương Các vừa kịp lúc vào tiệc.

Thấy Vương Bột, viên Đô Đốc họ Diêm khinh là con nít, miễn cưỡng cấp giấy bút. Nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì chép lại cho ông xem.
Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già giặn. Đến câu:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc

Nghĩa:

Ráng chiều với cò lẻ cùng bay,
Nước thu cùng trời dài một sắc

thì ông vô cùng khâm phục.
Bài của họ Vương đặc sắc hơn tất cả. Từ đó, danh càng vang dậy khắp nơi.

Bài phú Đằng Vương Các rất dài, viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.

Cuối bài phú, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:

Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di, kỷ độ thu?
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

Nhưng người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân khi đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ (Việt nam ngày nay), Vương bị đắm thuyền, chết ở giữa biển lúc 29 xuân xanh.
Tương truyền rằng có một chuyện hoang đường liên hệ tới hai câu thơ:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc.

Hai câu thơ tuyệt diệu như thế mà có người cho Vương Bột còn dốt, nhưng không nói rõ dốt ở chỗ nàọ. Vì thế khi chết, hồn còn uất ức nên trong đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi bể, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm nga hai câu thơ trên và hỏi dốt chỗ nào, xin chỉ giúp. Nhưng ai nấy đều khen hay. Hồn Vương không bằng lòng, cho rằng sĩ tử kia còn dốt, thi khoa này không thể đậu. Quả thật như thế.

Rồi, vẫn tiếp tục như thế, giọng ngâm hai câu thơ kia vẫn còn văng vẳng bi ai theo hình bóng họ Vương thơ thẩn, dật dờ trên bãi biển.
Nhưng một hôm có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn Vương hiện hình níu lại hỏi, thì chàng văn nhân ấy cười bảo:
- Hai câu thơ ấy không phải sai nhưng nhà ngươi còn dốt thật. Đã bao năm có tiếng là tứ kiệt Sơ Đường mà không nhận biết được cái dốt của mình trong hai câu thơ ấy ư?

Nói xong dứt áo ra đi. Vương tha thiết yêu cầu giải thích. Khách không phụ lòng, nên bảo:
- Hai câu thơ thừa chữ “dữ” và chữ “cộng”. Nếu bỏ hai chữ thì thật tuyệt, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:

Lạc hà cô vụ tề phi,
Thu thuỷ tràng thiên nhất sắc.

Vương Bột nhận ra, quả còn dốt thật, mới bái tạ lãnh lời chỉ giáo.
Từ đó, trong đêm khuya thanh vắng, trên bãi biển không còn hình bóng của nhà thơ tài danh trẻ tuổi hiện ra nữạ và giọng ngâm hai câu thơ bất hủ bi ai, não ruột kia cũng chìm mất trong không gian cao rộng, mịt mờ.

Con Cò
***
Các Bài Dịch khác:

Gác Đằng Vương

Bãi sông, cao ngất Đằng Vương lầu,
Ngọc múa chuông ca bỏ tự lâu.
Mây biển Tây, mai vờn mái vẽ,
Mưa đồi Nam tối lọt rèm châu.
Bao ngày mây lửng đầm soi bóng,
Mấy độ sao băng vật đổi màu.
Trong gác con vua nay vắng mặt,
Sông dài trước cửa vẫn trôi mau.

Mỹ Ngọc 
Jan.28/2022.
***
Lầu Các Còn Đây, Người Xưa Đâu?

Bên sông cung điện chập chùng
Cườm tay đeo ngọc, bóng hồng nơi nao?
Ca hoan nhã nhạc xôn xao
Giờ đây sương tỏa mái lầu chơ vơ
Mây bay đầm lạnh lững lờ
Sao dời vật đổi hoang sơ mấy mùa
Đâu chàng hoàng tử năm xưa
Miên man sóng nước còn khua hiên ngoài

Yên Nhiên
***
Gác Đằng Vương

Gác Đằng bến nước dựng cao ngất
Đeo ngọc nhạc reo ca múa dứt
Cột vẽ bến Nam mây sớm bay
Núi Tây mưa tối rèm châu thắt

Mây nhàn bóng nước ngày phiêu du
Vật đổi sao dời đã mấy thu
Trên gác con vua sao trống vắng?
Trường Giang hiên trước chảy như ru!

Lộc Bắc
***
Góp ý:

Theo truyền thuyết, Vương Bột hay chữ từ khi còn trẻ, thi đậu cao, năm 20 tuổi được bổ làm Triều Tán Lang (là chức gì, có nhiệm vụ chi thì BS không biết).
Khi làm tham quân tại Quắc Châu, phạm tội giết người, bị án tử, may gặp dịp đại xá, chỉ phải ở tù. Vì vụ này mà cha là Vương Phúc Chi bị đầy đi làm huyện trưởng ở Giao Chỉ.
Đằng Vương Các ở Nam Xương, tỉnh Giang Tây, do Đằng Vương Lý Nguyên Anh, con của Đường Cao Tổ Lý Uyên, xây năm 653, khi Vương làm Thứ Sử Hồng Châu, thuộc Giang Tây.
Khi Diêm Bá Dư về làm Thứ Sử ở đây, muốn khoe tài con rể, nên tổ chức một bữa tiệc tại Đằng Vương Các để các tao nhân mặc khách làm bài tự.

Bài của con rể Diêm thì làm từ trước, bài của Vương Bột làm tại chỗ, nhưng ai cũng phải công nhận là bài của Vương hay nhất. Bài thơ ÔC đưa ra kỳ này là phần cuối của bài Đằng Vương Các Tự, theo thể thất ngôn bát cú.
Đúng như anh Tâm và anh Giám đã nói, chữ đầu của câu thứ ba là họa, bài ÔC lấy trong Thi Viện, phiên âm là họa, nhưng trong bản Hán tự là chữ trú. Các sách của BS có đều viết chữ họa.

Bài này có nhiều chữ cần giải thích:
- Chử là bến nước, bãi sông. Có âm khác là hử, như thủy hử (tên truyện)
- Bội là đeo. Bội ngọc là đeo những đồ trang sức bằng ngọc, khi múa, những miếng ngọc này chạm vào nhau, phát ra tiếng động rất êm tai.
- Loan là chim phượng mái, hoặc là cái chuông nhỏ mà nữ vũ công đeo vào cổ tay, khi múa chúng cũng phát ra tiếng kêu.
- Bãi là bãi bỏ, ngừng, thôi, nghỉ, xong.

Cả câu thứ hai này có ý hoài cổ, những màn múa hát náo nhiệt thời xưa không còn nữa.
- Quyển là cuốn lại, cuốn theo…
- Nam Phố thuộc huyện Nam Xương, tỉnh Giang Tây.
- Tây Sơn, tên núi, ở huyện Tân Kiên, tỉnh Giang Tây,
- Trường Giang là sông Dương Tử. Đằng Vương Các chính ở huyện Nam Xương, tại bến sông này.
- Hạm là hiên nhà, lan can, ngưỡng cửa, mạn thuyền.

Bài thơ tương đối dễ hiểu, nhưng hai câu 3 và 4 làm BS thắc mắc: Tả cảnh bên ngoài hay tả trang trí ở bên trong Đằng Vương Các?
BS nghĩ là tả bên trong, có ý khen nét họa thần kỳ của họa sĩ:
Vẽ trên cột thì thấy mây buổi sáng ở Nam Phố.
Vẽ cảnh mưa trên Tây Sơn, thì khi cuốn màn lại, giống như cuốn hết mưa trên núi.

Câu thứ 5, BS cũng thắc mắc với chữ ĐÀM. Lầu ở bến sông thì đâu có cái đầm nào? Đàm cũng có nghĩa là ven nước, như trong câu khinh hồng hí giang đàm. Vậy là hình bóng mây phản chiếu trên nước sông.

Nhân đây, BS muốn nhắc tới một truyền thuyết nữa về Vương Bột.
Trong bài Đằng Vương Các Tự, Vương rất đắc ý với hai câu:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.

Khi Vương Bột đi thăm cha ở Giao Chỉ bị chết đuối, nhưng mình không biết chết ở đâu, có chỗ nói ở biển Nam Hải, sách khác thì nói ở hồ Động Đình, hoặc sông Chương giang. Theo Giai Thoại Làng Nho của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, thì Vương vì chết sớm, nên hồn không tan, đêm đêm hiện lên ngâm hai câu thơ, rồi hỏi khách trên thuyền là thơ có hay không? Trả lời không, hoặc trả lời có mà không giải thích được hay ở chỗ nào là bị dìm cho thuyền đắm. Cho tới khi quan Chánh Sứ của Việt Nam đời Trần là Trạng Nguyên Hồ Tông Thốc đi qua cũng bị hỏi, thì được trả lời là thơ hay, nhưng chưa hoàn hảo: hà tất cộng, hà tất dữ? Vương đọc lại, thì quả nhiên, nếu bỏ hai chữ cộng, dữ thì câu thơ vẫn hay mà lại gọn.

Lạc hà cô vụ tề phi,
Thu thủy trường thiên nhất sắc.

Vương chịu là đúng, và từ đó mới thôi hiện hồn dọa hành khách đi thuyền nữa.
Truyện này được gán cho Hồ Tông Thốc có vẻ hoang đường, do mình bịa ra để thỏa mãn tự ái dân tộc thôi. Hồ là nhân vật có thật, năm 1372 làm Hàn Lâm Viện Đại Học Sĩ, nhưng theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, thì ông đỗ cao, nhưng không phải Trạng Nguyên.

Đây là bản dịch:

Gác Đằng Vương.

Bên sông cao ngất gác Đằng Vương,
Tiếng ngọc, chuông kêu, múa hát ngừng,
Cột vẽ mây bay về Nam Phố,
Rèm châu cuốn cảnh núi Tây phương,
Lờ lững mây trôi, soi bóng nước,
Vật đổi sao dời đã mấy sương,
Trong gác con vua giờ đâu tá?
Ngoài cửa sông dài nước vẫn tuôn..

Bát Sách
(30/01/2022)
***
Nguyên Tác: Phiên Âm:

滕王閣-王勃 Đằng Vương Các – Vương Bột

滕王高閣臨江渚 Đằng Vương cao các lâm giang chử
珮玉鳴鸞罷歌舞 Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
畫棟朝飛南浦雲 Họa đống triêu phi Nam Phố vân
珠簾暮卷西山雨 Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ
閑雲潭影日悠悠 Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
物換星移幾度秋 Vật hoán tinh di kỷ độ thu
閣中帝子今何在 Các trung đế tử kim hà tại
檻外長江空自流 Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu

Bài thơ được khác trong các sách:

Vương Tử An Tập - Đường - Vương Bột 王子安集-唐-王勃
Đường Âm - Nguyên - Dương Sĩ Hoằng 唐音-元-楊士弘
Văn Uyển Anh Hoa - Tống - Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉
Cổ Kim Thi San - Minh - Lý Phàn Long 古今詩刪-明-李攀龍


Ghi chú:

Đằng Vương Các: ở thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây. Gác này do Lý Nguyên Anh 李元嬰, là con vua Đường Cao Tông Lý Uyên xây cất. Về sau Nguyên Anh được phong làm Đằng Vương nên gác có tên như thế.
- Giang chử: giang chỉ sông Cám/Cống贛, chử là bãi cù lao nhỏ ở trên sông.
- Bội ngọc: ngọc cổ xưa đeo trên mình hay trên vành áo quần để trang trí
- Minh loan: xe vua đi thăm phi tần có gắn chuông vàng hình chim loan, khi xe chuyển động phát ra tiếng nhạc nên nói là chim loan kêu
- Họa đống: các tòa nhà cao như trụ cột có trang trí màu sắc
- Nam Phố: tên đất ở phía tây nam huyện Nam Xương, Giang Tây
- Châu liêm: Rèm bằng hạt châu. Đời Xuân Thu, vua nước Việt là Câu Tiễn đã dâng vua Ngô Phù Sai hai mỹ nhân là Tây Thi và Trịnh Đán. Vua Ngô yêu quý để hai nàng ở đài Cô Tô có mành che cửa bằng những hạt minh châu.
- Tây Sơn: tên núi, nằm ở phía tây huyện Tân Kiến, tỉnh Giang Tây
- Nhật du du: lang thang hàng ngày mà không bị gì ràng buộc
- Vật hoán tinh di: mô tả sự thay đổi của vạn vật, của thời đại
- Đế tử: con vua, chỉ Đằng Vương Lý Nguyên Anh
- Hạm: lan can.

Dịch Nghĩa:

Đằng Vương Các  Gác Đằng Vương

Đằng Vương cao các lâm giang chử
Gác Đằng Vương cao ngất nhìn xuống bãi cát ở giữa lòng sông,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Tiếng ngọc, tiếng chuông vang, múa ca nay đã ngưng hết rồi.
Họa đống triêu phi Nam Phố vân
Sáng sớm mây bay ngang các tòa nhà cao màu sắc như tranh vẽ ở phố Nam,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ
Buổi chiều rèm châu cuốn lên cho thấy mưa bên núi Tây.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Mây thong dong lững lờ ngày ngày trôi qua in bóng trên đầm,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Vật đổi sao dời đã trải qua bao nhiêu mùa thu?
Các trung đế tử kim hà tại
Con vua (Đằng Vương) khi xưa ở trong gác này bây giờ ở đâu?
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu
Ngoài lan can Trường Giang vẫn cứ cuồn cuộn chảy mãi.

Bình luận

Đằng Vương Các là một trong ba đại danh lầu của vùng Giang Nam, cùng với Nhạc Dương LâuNhạc Dương, Hồ NamHoàng Hạc LâuVũ Hán, Hồ Bắc Và là một trong bốn đại danh lâu của Trung Hoa, nếu kể thêm Bồng Lai CácBồng Lai, Sơn Đông.

Theo định nghĩa trong tự điển Trung Hoa, các閣 và lâu樓 không khác nhau. Không thấy đâu nói chúng có khu vực để cư trú, tuy câu 7 bài Đằng Vương Các có ẩn ý con vua từng sống ở đó.

Các: tòa nhà cao để ngắm cảnh từ xa, giải trí, sưu tập sách, thờ cúng…
Lâu: phần trên của tòa nhà có kiến trúc thượng tầng, tầng một của tòa nhà, nhà có từ hai tầng trở lên

Nhiều người biết đến Hoàng Hạc lâu qua bài thơ Hoàng Hac Lâu của Thôi Hiệu. Lý Thương Ẩn có bài Nhạc Dương Lâu. Đỗ Phủ có bài Đăng Nhạc Dương Lâu.

Đằng Vương các đã nổi tiếng từ thời Sơ Đường qua bài phú của Vương Bột.
Bài phú này còn có vài câu rất xuất sắc mà người đời sau thường hay nhắc đến:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc.
Ngư chu xướng vãn,
Hưởng cùng Bành Lãi chi tân;
Nhạn trận kinh hàn,
Thanh đoạn Hành Dương chi phố.

Đây là mấy câu dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục:

Cò bay ráng lượn đua nhau,
Long lanh đáy nước in màu trời xa
Trằm Bành Lãi gần xa tai lắng,
Giọng ngư chu văng vẳng chiều hôm;
Tiếng đâu Hành phố nổi chìm,
Phải chăng trận nhạn bắc nam kinh hàn.

Tương truyền Vương Bột làm trọn bài phú này tại buổi tiệc Diêm Bá Chư, đô đốc Hồng Châu, đặt ở Đằng Vương Các. Vương Bột lúc đó mới có 19 tuổi, nhờ cơn gió thổi mạnh thuyền chàng mới đến được Đằng Vương Các đúng giờ. Nguyễn Du có dùng điển tích này cho câu Kiều:

Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc se tơ những ngày. (câu 1531-2)

Bài phú kết thúc bằng một bài thơ thất ngôn bát cú mà chúng ta đang bàn luận. Đằng Vương Các được xây cất năm 653, bị phá cháy rụi nhiều lần, được tu bổ và xây cất lại gần 30 lần, lần mới nhất được xây lại ở vị trí nguyên thủy vào năm 1989-91. Bài thơ của Vương Bột viết khoảng 20 năm sau, vật đổi sao dời, tuy lầu vẫn còn đứng nhìn bãi cát trên sông Cám, nhà đã thay đổi chủ và tiếng đàn hát không còn nữa. Ngày nay đứng trên lầu cao, chắc vẫn con thấy cao ốc màu mè của Nam Phố cũng như mưa mù ở Tây Sơn. Các ao đầm chung quanh lầu có lẽ đã biến mất, nên mây trắng chỉ còn in bóng trên dòng sông. Không hiểu vì sao trong câu cuối, Vương Bột lại nói đến Trường Giang bên kia lan can? Trường Giang cách xa Nam Xương ít nhất 20 dặm về phía Bắc. Ngày trời trong, có thể nhìn thấy Trường Giang chăng?

Dịch Thơ:

Gác Đằng Vương

Gác Ðằng cao ngất đứng bên bờ
Đàn hát đã ngưng tự bấy giờ
Mây sáng phố Nam quanh cột vẻ
Mưa chiều ngoài cửa núi Tây mờ
Ðầm yên in bóng mây lơ lửng
Vật đổi sao dời thu vẫn thơ
Vua chúa ngày xưa giờ vắng bóng
Sông Trường trôi mãi không dừng chờ.

Prince Teng's Palace By Wang Bo
Translation by H.A. Giles

Near these islands a palace was built by a prince,
But its music and song have departed long since;
The hill mists of morning sweep down on the halls,
At night the red curtains lie furled on the walls.
The clouds o'er the water their shadows still cast,
Things change like the stars: how few autumns have passed.
And yet where is that prince? Where is he? - No reply,
Save the splash of the stream rolling ceaselessly by.

Chinese poetry in English verse, London, 1898
Phí Minh Tâm
***
Góp ý:

Không hiểu vì sao trong câu cuối, Vương Bột lại nói đến Trường Giang bên kia lan can?

Con Cò lấy theo một lời bàn từ Thi Viện rằng Đằng Vương Các tọa lạc trên sông Tầm Dương, anh Tâm thì biết rằng lầu này nằm trên bờ sông Cám nên phân vân tại sao Vương Bột lại thấy sông Trường Giang ở ngoài lan can.

Con sông Trường Giang có nhiều tên và tên Trường Giang dễ hiểu vì nó ... dài quá, nhưng nó còn mang nhiều tên khác tùy địa phương nó đi qua. Ngày xưa người Việt thường biết đến nó qua tên 扬子江 Dương Tử giang (qua văn học Tây phương), từ môt bến đò tên Dương Tử.

Tầm Dương là tên của địa danh Tầm Dương cổ (huyện hay quận thời Hán) ở phía Bắc của Trường Giang và có tên đó vì nằm trên Tầm Thủy (浔水), một nhánh nhỏ của sông Trường Giang. 浔阳江 hay 寻阳江, cùng phát âm Tầm Dương giang là tên của đoạn sông Trường Giang chảy qua vùng này. Địa Danh thời Hán biến mất rồi và bây giờ 浔阳区=Tầm Dương khu là một khu phố trong thành phố Cửu Giang ở phía Nam sông Tầm Dương. Thành phố này còn tự xưng là 浔=Tầm.

Thuở khai thiên lập địa, Trường Giang chỉ có tên là 江 và tên này là do người Bách Việt dùng để gọi các con sông và người Hán ... mượn. Thời nhà Hán, nó được gọi là 大江=Đại Giang và tên 長江=Trường Giang chỉ ra đời từ thời Lục Triều. 揚子= Dương Tử là tên của phần hạ lưu cua Trường Giang từ Hồ Khẩu.

Đằng Vương Các tọa lạc trên sông 贛=Cám. Sông Cám là phụ lưu lớn thứ 7 hướng Đông Nam của Trường Giang, dài 991 km, và không có cách gì thấy Trường Giang từ đó vì lầu nằm 100 km hướng Nam của 九江=Cửu Giang thị (Jiujiang trong bản đồ; hồ màu xanh là Bà Dương)

(Trong bản đồ dưới, Nam Chang là Nam Xương, nơi nổi tiếng vì có Đằng Vương Các)

Nhưng ta cần nhớ rằng người thời Đường không gọi đoạn sông của Trường Giang ở vùng này là Trường Giang mà là sông Tầm Dương. Trong bài thơ này trường giang chỉ có nghĩa là ... sông (Cám) dài, và không nên viết hoa trong các bản dịch.

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét