Sau đây là bài thơ NGƯ ÔNG 漁翁 của ông làm cũng trong thời gian bị đày ở Vĩnh Châu; mặc dù thất ý trong chính trường ông vẫn tỏ cao nhã trong cuộc sống với bản chất cao khiết của mình chứ không bi quan yếm thế. Ta hãy đọc bài thơ NGƯ ÔNG của ông sau đây sẽ rõ...
漁翁 Ngư Ông
漁翁夜傍西巖宿, Ngư ông dạ bạng tây nham túc,
曉汲清湘燃楚竹。 Hiểu cấp thanh Tương nhiên Sở trúc.
煙銷日出不見人, Yên tiêu nhật xuất bất kiến nhân,
欸乃一聲山水綠。 Ải nãi nhất thanh sơn thủy lục.
回看天際下中流, Hồi khan thiên tế há trung lưu,
巖上無心雲相逐。 Nham thượng vô tâm vân tương trục!
Liễu Tông Nguyên
* Chú thích:
- Ngư Ông 漁翁: NGƯ 漁 có ba chấm Thủy 氵bên trái, có nghĩa là Cái gì đó
thuộc về Cá hay có liên quan đến Cá; nên NGƯ ÔNG là Ông lão đánh bắt cá;
NGƯ THUYỀN là thuyền dùng để đi bắt hoặc câu cá...
- Dạ Bạng 夜傍 : BẠNG là bên cạnh; nên DẠ BẠNG là Cạnh đêm, có nghĩa là Gần tối, là Hoàng hôn, là Chạng vạng tối.
- Tây Nham 西巖 : NHAM là hòn núi, tảng đá lớn.TÂY NHAM là Ngọn núi phía tây.
- Cấp 汲: là Múc nước.
- Yên Tiêu 煙銷 : YÊN ở đây chỉ khói sương trên sóng nước, nên YÊN TIÊU là Khói sương trên sóng nước tan đi.
- Ải Nãi 欸乃 : Từ thượng thanh chỉ tiếng "kẽo kẹt" của mái chèo khi xoay chèo lướt tới.
- Tương Trục 相逐 : TƯƠNG là Với nhau; TRỤC là rượt đuổi, nên TƯƠNG TRỤC là Đuổi bắt nhau.
* Nghĩa Bài thơ:
Ông Lão Đánh Cá
Ông lão đánh cá lúc gần tối thì tá túc qua đêm ở bên bờ núi tây; Buổi sáng thì múc nước trong của dòng sông Tương rồi nấu bằng tre của đất Sở. Khi mặt trời lên, lúc khói sóng tan đi thì cũng chẳng thấy bóng một người nào cả. "Kẽo kẹt" một tiếng thuyền lại lướt đi giữa non xanh nước biếc. Quay nhìn dòng nước chảy tận phía chân trời xa xa ở hạ lưu, chỉ thấy trên núi cao các đám mây như vô tình cứ rượt đuổi nhau mãi tận bên trời.
Vui với cuộc sống giản dị, nhàn nhã thanh cao với non xanh nước biếc, xuôi thuyền trên sông để ngắm núi xanh mây trắng mà lãng quên thế sự.
Ngư Ông
Đêm xuống ngư ông trọ núi tây
Nước Tương tre Sở sáng là đây
Nắng lên sương khói mờ nhân ảnh
Kẽo kẹt chèo buông sóng nước đầy
Quay nhìn mút mắt theo dòng chảy
Đầu núi đuổi nhau trắng những mây!
Nước Tương tre Sở sáng là đây
Nắng lên sương khói mờ nhân ảnh
Kẽo kẹt chèo buông sóng nước đầy
Quay nhìn mút mắt theo dòng chảy
Đầu núi đuổi nhau trắng những mây!
Lục bát:
Ngư thuyền đêm trọ núi tây,
Nước Tương tre Sở sáng ngày loay hoay.
Khói tan nắng đẹp sương phai,
Non xanh nước biếc thuyền ai kẽo-cà...
Quay đầu mặt nước xa xa,
Núi xanh mây trắng bay qua bên trời!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Ông Chài
Chiều tối ông chài nghỉ núi tây,
Nước Tương , trúc Sở nấu ban mai
Sương tan trời sáng người không thấy,
Núi biếc sông xanh vỗ mạn chài
Nhìn lại bóng trời trong nước chảy
Hững hờ mây núi đuổi nhau bay.
Lục Bát:.
Ông chài đêm nghỉ non đoài
Nươc Tương, trúc Sở sớm ngày nấu ăn.
Không người, trời sáng sương tan
Non xanh nước biếc hò khoan một mình,
Bóng trời nước chảy mông minh,
Mây cao trên núi vô tình đuổi nhau.
Song Thất Lục Bát:
Ông chài đến núi tây đêm đậu
Lấy Sở tre sớm nấu nước Tương
Không người, trời sáng tan sương
Non xanh nước biếc thân thương câu hò
Trời in bóng lửng lơ giòng nước
Mây vô tình đuổi rượt trên non
Mỹ Ngọc phỏng dịch
Phải chăng người viết bài muốn người đọc đoán tác giả của bài thơ Đường này là ai. pmt
Trả lờiXóaAnh Minh Tâm kính mến. Kim Oanh nghĩ đây là sơ sót khi quên tên Tác giả bài Ngư Ông. Nhờ anh hỏi và chị Mỹ Ngọc cho biết Ngư Ông tác giả là Liễu Tông Nguyên.
Trả lờiXóaKim Oanh đã cập nhật. Xin cám ơn anh Phí Minh Tâm và chị Mỹ Ngọc nhiều.