Nguyên tác Dịch âm
夜發袁江寄李潁川劉侍郎 (時二公貶於此)
Dạ Phát Viên Giang Ký Lý Dĩnh Xuyên Lưu Thị Lang (thời nhị công biếm ư thử)
半夜回舟入楚鄉 Bán dạ hồi chu nhập Sở hương,
月明山水共蒼蒼 Nguyệt minh sơn thuỷ cộng thương thương.
孤猿更發秋風裏 Cô viên cánh phát thu phong lý,
不是愁人亦斷腸 Bất thị sầu nhân diệc đoạn trường.
Sở hương: Phiếm chỉ quê hương nước Sở cũ nay là khu vực phia đông nam tỉnh Giang Tây
Nửa đêm trên thuyền vào quê hương nước Sở cũ,
Trăng sáng, núi sông cùng một mầu lam bao la.
Một con vượn lẻ bầy kêu ảo não trong gió thu,
Chẳng phải là người đa sầu đa cảm cũng thấy buồn đứt ruột.袁江 Pingxiang Jiangsu
*Viên giang còn gọi là Viên thủy hay Tú giang, sông bắt nguồn từ núi La Tiêu, huyện Bình Hương, tỉnh Giang Tây, chảy theo hướng đông rồi nhập vào sông Cám. Dĩnh Xuyên thuộc tỉnh An Huy. Lý Dĩnh Xuyên có thể là Lý Cao. Lưu thị lang chỉ Lưu Yến, từng làm Hộ bộ thị lang kiêm Ngự sử đại phu, Kinh triệu doãn.
Có nơi chép bài thơ này của Hoàng Phủ Nhiễm.
Dịch thơ
Đêm Khởi Hành Từ Sông Viên, Gửi Ông Lý Ở Dĩnh Xuyên Và Lưu Thị Lang (lúc hai ông bị biếm ở đây).
Nửa đêm quay thuyền vào đất Sở
Sáng trăng non nước một màu xanh
Vượn côi hú gió thu nức nở
Dẫu chẳng bi quan cũng đoạn trường
Con Cò
***
Dịch thơ:
Quay thuyền về Sở giữa đêm trường
Trăng sáng núi sông biếc chập chùng
Vượn lẻ kêu buồn thu gió lạnh
Đâu riêng sầu khách nát tan lòng
Lộc Bắc
***
Quay thuyền lại Sở giữa đêm thâu,
Trăng nước non xanh ngắt một mầu,
Vượn côi lại hú lên trong gió,
Không buồn mà đứt ruột vì đâu.
Bát Sách
***
Thuyền quay về Sở lúc đêm trường
Trăng chiếu non sông màu lục dương
Côi cút vượn kêu như muốn khóc
Người sầu buôn bã não can trường
LạcThủyÐỗQuýBái
***
Nguyên Tác: Phiên Âm:
夜發袁江*寄李潁川劉侍郎 (時二公貶於此) - 戴叔倫**
Dạ Phát Viên Giang Ký Lý Dĩnh Xuyên Lưu Thị Lang
(thời nhị công biếm ư thử) - Đới Thúc Luân
半夜回舟入楚鄉 Bán dạ hồi chu nhập Sở hương
月明山水共蒼蒼 Nguyệt minh sơn thuỷ cộng thương thương
孤猿更發秋風裏*** Cô viên cánh phát thu phong lý
不是愁人亦斷腸 Bất thị sầu nhân diệc đoạn trường.
Dị bản:
* Nguyên giang 沅江 = sông Nguyên
** Hoàng Phủ Nhiễm 皇甫冉
*** viên 猿 = 猨
Ghi Chú:
Viên giang (Yuanjiang) còn gọi là Viên thủy (Yuanshui), sông nhỏ, dài 279 km, bắt nguồn từ núi La Tiêu, chảy qua thị trấn Lô Khê, huyện Bình Hương, tỉnh Giang Tây, chảy về Đông Bắc để nhập vào sông Cám rồi vào hồ Bà Dương gần ranh giới tỉnh An Huy.
Nguyên giang (Yuanjiang) là một con sông lớn bắt nguồn từ một hồ gần Hoài Hoá, Hồ Nam, dài 864 km, chảy về Đông qua thành phố Thường Đức để vào Động Đình Hồ. Bài thơ này nói về sông Viên vì vị trí sông Nguyên ở Hồ Nam không hợp với ý bài thơ, quay ghe về đất Sở ở đông nam Giang Tây. Sở dĩ có sự nhầm lẫn vì chữ Viên 袁và Nguyên 沅 cùng bính âm là Yuán.
Dĩnh Xuyên thuộc tỉnh An Huy. Lý Dĩnh Xuyên có lẽ là Lý Cao. Lưu thị lang chỉ Lưu Yến, từng làm Hộ bộ thị lang kiêm Ngự sử đại phu.
Sở hương: chỉ quê hương nước Sở cũ nay là khu vực phia đông nam tỉnh Giang Tây. Đôi khi tôi tự hỏi địa lý của các bài thơ chính xác đến mức độ nào? Nếu lưu vực sông Hoài là đất nước Sở ngày xưa. Sông Viên, sông Cám đổ vào hồ Bà Dương cách sông Hoài gần 400 km về phía Nam, làm sao gần Sở hương được? Còn như đất Sở ở đông nam Giang Tây, trong khi hồ Bà Dương ở đông bắc Giang Tây.
Dịch Nghĩa:
Đêm khởi hành từ sông Viên, gửi ông Lý ở Dĩnh Xuyên và Lưu thị lang (lúc hai ông bị biếm tại đây)
Nửa đêm quay đầu thuyền vào quê hương nước Sở cũ,
Trăng sáng, núi sông cùng bầu trời một màu xanh bao la.
Lại thêm một con vượn lẻ bầy kêu ảo não trong gió thu,
Chẳng phải là người đa sầu đa cảm cũng thấy buồn đứt ruột.
Dịch Thơ:
Gởi Bạn
Nửa đêm hướng Sở ghe quay đầu
Trăng núi trời sông xanh một màu
Vượn lẻ gọi đàn nghe áo não
Làm buồn đứt ruột kẻ không sầu.
Phí Minh Tâm
***
Buồn Nẫu Ruột
Khuya quay thuyền hướng về quê cũ
Trong gió thu vượn hú đơn côi
Non xanh nước biếc trăng ngời
Dẫu không ủy mị bời bời tâm can
At midnight, the boat turns around, heading towards the homeland
Bathed in moonlight, blue water and mountains
In the autumn wind the howling of a lone gibbon
Not a bit melancholic, but one's heart would sink
Yên Nhiên
***
1/
Nửa đêm ghé Sở hướng thuyền quay,
Nước biếc non xanh ánh nguyệt đầy.
Tiếng vượn lẻ loi thu gió thổi,
Ai không nát dạ thấy buồn lây!!!
2/
Quay thuyền ghé Sở canh thâu,
Non xanh nước biếc một mầu trăng soi,
Gió thu vượn hú lẻ loi,
Ai mà không thấy đầy vơi cõi lòng!!!!
Mỹ Ngọc.
Nov 6/2021.
***
Cảm Tác:
Tri Kỷ
Tri kỷ đời có mấy người
Vong niên hai bạn cảnh thời đáng thương
Vào tù ra khám tai ương
Công việc đành bỏ tìm đường tới thăm
Đồ Cóc
***
Góp ý:
Dĩnh Xuyên thuộc tỉnh An Huy ...
Sở hương: chỉ quê hương nước Sở cũ nay là khu vực phia đông nam tỉnh Giang Tây. Đôi khi tôi tự hỏi địa lý của các bài thơ chính xác đến mức độ nào? Nếu lưu vực sông Hoài là đất nước Sở ngày xưa. Sông Viên, sông Cám đổ vào hồ Bà Dương cách sông Hoài gần 400 km về phía Nam, làm sao gần Sở hương được? Còn như đất Sở ở đông nam Giang Tây, trong khi hồ Bà Dương ở đông bắc Giang Tây.
Tôi cứ ngỡ là chúng ta bàn đủ nhiều về để tài Sở hương rồi nhưng thì ra vẫn còn có chuyện để nhắc đến nó. Dĩnh Xuyên là tên cổ của một địa danh ở trung tâm của tỉnh Hà Nam, không phải trong tỉnh An Huy. Tên và tầm quan trọng của Dĩnh Xuyên đổi nhiều lần từ thời Hán, và giờ chỉ còn là một địa danh trong lịch sử, nhưng chúng ta biết nó như là Hứa Xương của Tào Tháo. Nó có tên Dĩnh vì sông Dĩnh, một nhánh của sông Hoài - chảy qua đó, và như anh Tâm nói, Dĩnh Xuyên ở hướng Bắc của Dương Tử và cách vùng sông hồ Tiêu Tương mấy trăm dặm Anh. Các sông Viên và Nguyên thì đúng là thuộc về đất Sở ngày xưa vì nước Sở chiếm hết đất Hoa Lục phía Nam sông Hoàng Hà. Chúng ta cần nhớ là chưa hẳn Đới Thúc Luân phải ở gần Dĩnh Xuyên để làm thơ gửi cho hai người bạn họ Lý và Lưu bị biếm ở đó. Bài thơ có thể được làm lúc họ Đới đã bị thất sủng và biếm xuống miền Nam và cám cảnh thân phận đi đày như các bạn.
Cái tên Viên giang trong tựa đề tạo rắc rối vì không như Nguyên Giang (沅 江), sông Viên chỉ có các tên Viên Hà hay Viên Thủy (袁水)
(trích từ Wikipedia: 袁水也称袁河, .... 是赣江左岸支流。Viên thủy dã xưng Viên hà, .... thị Cám giang tả ngạn chi lưu) và tại sao Đới Thúc Luân gọi là Viên Giang thì có lẽ không ai bây giờ biết. Như anh Tâm nhận xét 袁 và 沅 là hai chữ đồng âm (yuán trong bính âm) nhưng giờ không còn cách nào biết họ Đới đang chèo thuyền trên sông nào vì sông nào thì cũng ở trong đất Sở, chỉ có điều sông Nguyên đổ vào hồ Động Đình thì ở xa biển hơn sông Viên chảy vào hồ Bà Dương.
Huỳnh Kim Giám
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét