十年生死兩茫茫, Thập niên sinh tử lưỡng mang mang,
不思量, Bất tư lương,
自難忘。 Tự nan vương (vong)
千里孤墳, Thiên lý cô phần,
無處話淒涼。 Vô xứ thoại thê lương.
縱使相逢應不識, Túng sử tương phùng ưng bất thức,
塵滿面、 Trần mãn diện,
鬢如霜。 Mấn như sương.
夜來幽夢忽還鄉, Dạ lai u mộng hốt hoàn hương,
小軒窗, Tiểu hiên song,
正梳妝。 Chính sơ trang.
相顧無言, Tương cố vô ngôn,
惟有淚千行。 Duy hữu lệ thiên hàng.
料得年年腸斷處 Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ,
明月夜、 Minh nguyệt dạ,
短松崗。 Đoản tùng cương.
Tô Thức
Mười năm sống chết đều mang mang,
Không nghĩ tới,
Mà khó quên.
Ngàn dặm, mồ cô quạnh,
Không có nơi nào để kể nỗi thê lương
Giả thử gặp nhau, chắc không nhận biết,
(vì) Bụi đầy mặt,
Tóc như sương.
Đêm đến, trong mơ, chợt về quê,
Trước cửa sổ, nơi hiên nhỏ,
Nàng đang điểm trang...
Nhìn nhau chẳng nói,
Chỉ có lệ ngàn hàng
Nếu được mỗi năm đến chốn đoạn trường...
Đêm trăng sáng,
Đồi thông thấp (Mới trồng 10 năm, cây đâu đã cao...)
***
Mười năm sống thác những mơ màng,
Không cố nhớ,
Thật khó quên.
Ngàn dặm mồ hoang,
Đâu chỗ kể thê lương.
Ví thử gặp nhau, đâu dễ nhận.
Mặt đầy bụi,
Tóc như sương...
Đêm về, trong mộng chợt hồi hương,
Cửa hiên nhỏ,
Nàng điểm trang.
Nhìn nhau chẳng nói,
Chỉ có lệ ngàn hàng.
Nếu tới hàng năm nơi đứt ruột,
Đêm trăng sáng,
Đồi thông non.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét