Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2021

Ất Mão Chính Nguyệt, Nhị Thập Nhật Dạ Ký Mộng 乙卯正月二十日夜記夢 -Tô Thức


Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha Cư Sĩ, sinh năm 1036, mất năm 1101. Ông người Mi Châu, tỉnh Tứ Xuyên. Ông là một đại văn hào đời Tống, làm phú, thơ, từ, lại giỏi thư pháp và hội hoạ. Tranh vẽ trúc của ông rất nổi tiếng.

Tuy có tài, nhưng hoạn lộ của ông rất thăng trầm, và cuộc sống tình cảm cũng nhiều sóng gió. Năm 19 tuổi, ông cưới bà vợ đầu là Vương Phất, 16 tuổi, con của Tiến Sĩ Vương Phương, cùng quê với ông. Hai người vô cùng ý hợp tâm đầu. Bà hay chữ, và giúp ông rất nhiều khi làm quan. Bà mất năm 1065, khi mới 27 tuổi, ở kinh, nhưng được đưa về chôn tại quê nhà, ở Tứ Xuyên, trên một ngọn đồi, và chính Tô đã trồng 3000 cây tùng để tỏ lòng thương nhớ.

Mấy năm sau, Tô tục huyền với Vương Nhuận Chi, là em họ của vợ, và cũng là người hằng mến mộ văn tài của ông từ nhiều năm qua... Bà này cũng hay chữ, lại hiền thục theo Tô khắp nơi, trong nhiều lần bị biếm. Bà mất năm 1093. Năm 1071, bà mua cho ông một ca nữ ở Tiền Đường, là Vương Triêu Vân, lúc đó mới 12 tuổi để hầu hạ. Cô này lanh lợi giỏi văn chương, được Tô chỉ dạy tận tình, và sau cưới làm thiếp. Cô mất năm 1096, vì bệnh, lúc 37 tuổi.

Năm 1075, 10 năm sau khi vợ đầu mất, Tô đang làm quan tại Sơn Đông, nằm mơ thấy vợ. Khi tỉnh lại, ông rất cảm động, bèn làm bài từ theo điệu Giang Thành Tử, có tên là:


乙卯正月二十日夜記夢 Ất Mão Chính Nguyệt, Nhị Thập Nhật Dạ Ký Mộng

十年生死兩茫茫,    Thập niên sinh tử lưỡng mang mang,
不思量,                    Bất tư lương,
自難忘。                    Tự nan vương (vong)
千里孤墳,                Thiên lý cô phần,
無處話淒涼。            Vô xứ thoại thê lương.
縱使相逢應不識,    Túng sử tương phùng ưng bất thức,
塵滿面、                    Trần mãn diện,
鬢如霜。                    Mấn như sương.

夜來幽夢忽還鄉,    Dạ lai u mộng hốt hoàn hương,
小軒窗,                   Tiểu hiên song,
正梳妝。                   Chính sơ trang.
相顧無言,               Tương cố vô ngôn,
惟有淚千行。           Duy hữu lệ thiên hàng.
料得年年腸斷處       Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ,
明月夜、                   Minh nguyệt dạ,
短松崗。                   Đoản tùng cương.

Tô Thức

***
Giải nghĩa:

 Thập Niên Sinh Tử 

Mười năm sống chết đều mang mang,
Không nghĩ tới,
Mà khó quên.
Ngàn dặm, mồ cô quạnh,
Không có nơi nào để kể nỗi thê lương
Giả thử gặp nhau, chắc không nhận biết,
(vì) Bụi đầy mặt,
Tóc như sương.
Đêm đến, trong mơ, chợt về quê,
Trước cửa sổ, nơi hiên nhỏ,
Nàng đang điểm trang...
Nhìn nhau chẳng nói,
Chỉ có lệ ngàn hàng
Nếu được mỗi năm đến chốn đoạn trường...
Đêm trăng sáng,
Đồi thông thấp (Mới trồng 10 năm, cây đâu đã cao...)

***

Bản dịch của Bát Sách, cố giữ từ điệu, và số chữ, nhưng chưa vừa ý, nhờ anh Khôi, anh Bảo giúp thêm.

Mười năm sống thác những mơ màng,
Không cố nhớ,
Thật khó quên.
Ngàn dặm mồ hoang,
Đâu chỗ kể thê lương.
Ví thử gặp nhau, đâu dễ nhận.
Mặt đầy bụi,
Tóc như sương...

Đêm về, trong mộng chợt hồi hương,
Cửa hiên nhỏ,
Nàng điểm trang.
Nhìn nhau chẳng nói,
Chỉ có lệ ngàn hàng.
Nếu tới hàng năm nơi đứt ruột,
Đêm trăng sáng,
Đồi thông non.

Bài này viết để riêng tặng Ông Cò.
Bát Sách.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét