Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2019

Giải Mã Thơ Tính Của Ca Từ “Les Feuilles Mortes”


      


      Jacques Prévert (1900-1977) là một cái tên không mấy xa lạ đối với người Việt sành nghe nhạc. Ông được biết đến dưới cái tên gọi quen thuộc Prévert như là tác giả một bài thơ nổi tiếng mang tựa đề Les feuilles mortes được nhạc sĩ Joseph Kosma đem phổ nhạc. Có thể nói mỗi lần nghe vọng lên giai điệu bản nhạc, ít ai không khỏi thấy hiện trong tâm trí, nếu không muốn nói là nhâm nhi câu nhạc này : « Les feuilles mortes se ramassent à la pelle ». Câu nhạc trở thành phổ biến đến độ cái tên Prévert được gắn liền với hình ảnh và câu nhạc kể trên, chẳng khác chi hình ảnh Thúy Kiều với cây đàn tì bà bên người. Điều ít ai ngờ là lời của  bản nhạc Les feuilles mortes không phải lấy ra từ một bài thơ của ông, mà chỉ là ca từ ông soạn theo một điệu nhạc sẵn có của Kosma dành cho một kịch vũ ba lê (ballet) tây phương. Nhưng khi lắng nghe giai điệu để viết lời, Prévert đã bị thu hút bởi những nốt nhạc quyến rũ của giai điệu nói lên nỗi buồn thầm kín nhưng nồng nàn đằm thắm của nhân vật chính Diégo, trước cái chết bi thảm của người yêu Malou bi chồng bắn chết vì ghen tuông. Và Prévert đã mượn giai điệu và soạn lời làm thành bản nhạc nền cho cuốn phim Les portes de la nuit  do chính ông viết kịch bản, như đã được đề cập trong bài viết  Mùa lá rụng  và được phổ biến trên một số diễn đàn mạng cách đây không lâu. Sự thành công của bản nhạc, một phần do giai điệu quyến rũ, phần khác do ca từ mang nhiều chất thơ, nên đã khiến nhiều người tưởng rằng ca từ của Les feuilles mortes là một bài thơ của Prévert được J. Kosma đem phổ nhạc. Để đánh tan ngộ nhận, chúng tôi đã lắng nghe bản Les feuilles mortes qua trình diễn của nhiều ca sĩ tài danh (*) và sau khi đọc kỹ toàn bộ ca từ Prévert, tôi tưởng như lý giải được phần nào, theo cảm nhận chủ quan, cái ma lực quyến rũ của ca từ khiến bản văn được xếp vào loại bài thơ bất hủ.  Nhưng trước khi đi vào lý giải ngộ nhận, xin ghi lại toàn bộ lời ca Prévert soạn theo giai điệu của Kosma như dưới đây:
           

Les Feuilles Mortes
(Texte intégral)

Oh ! Je voudrais tant que tu te souviennes
des jours heureux où nous étions amis
En ce temps-là la vie était plus belle
et le soleil plus brûlant qu’aujourd’hui
5 Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Tu vois je n’ai pas oublié…
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
les souvenirs et les regrets aussi
et le vent du nord les emporte
10 dans la nuit froide de l’oubli
Tu vois je n’ai pas oublié
la chanson que tu me chantais

C’est une chanson qui nous ressemble
Toi qui m’aimais
15 et je t’aimais
Et nous vivions tous deux ensemble
toi qui m’aimais
et que j’aimais (*)
Mais la vie sépare ceux qui s’aiment
20 tout doucement
sans faire de bruit
et la mer efface sur le sable
les pas des amants désunis

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
25 les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silencieux et fidèle
sourit toujours et remercie la vie
Je t’aimais tant tu étais si jolie
Comment veux-tu que je t’oublie
30 En ce temps-là la vie était plus belle
et le soleil plus brûlant qu’aujourd’hui
Tu étais ma plus douce amie…
Mais je n’ai que faire des regrets
Et la chanson que tu chantais
35 toujours toujours je l’entendrais

C’est une chanson qui nous ressemble
Toi qui m’aimais
et je t’aimais
Et nous vivions tous deux ensemble
40 toi qui m’aimais
et que j’aimais (*)
Mais la vie sépare ceux qui s’aiment
tout doucement
sans faire de bruits
45 et la mer efface sur le sable
les pas des amants désunis .

(Jacques PREVERT : Œuvres complètes Tome II – Textes inédits pp. 785-786, Bibliothèque de la Pléïade, Editions Gallimard 1966)
Prévert avait écrit dans un manuscrit (Ms 3) : « Toi qui m’aimais moi qui t’aimais » avant de s’arrêter à cette version définitive « et que j’aimais ». (op. cit. pp 190-191). Ce choix a-t-il un sens?




        Mới nhìn vào hình thức trình bày, ta có thể nghĩ rằng bài thơ (cứ tạm gọi là bài thơ đi) được phân ra làm bốn đoản khúc. Thực ra chi có ba đoản khúc thôi, vi đoản khúc hai và đoản khúc bốn chỉ là một, với lời lẽ được lập đi lập lại làm điệp khúc.
          Trước hết là đoản khúc một, với bốn câu mở đầu như sau:
                         Oh ! je voudrais tant que tu te souviennes(1)
                        Des jours heureux où nous étions amis (2)
                        En ce temps-là la vie était plus belle (3)
                       Et le soleil phus brûlant qu’aujourd’hui.(4)

Điều đập ngay vào mắt người đọc là thán từ Oh! bật lên như một tiếng nấc nghẹn ngào để khai mở cho toàn bản nhạc. Sang câu 2, (des jours heureux où nous étions amis) chúng ta không khỏi phần nào bỡ ngỡ khi thấy Prévert viết amis thay cho amants là từ hầu như ta đều gặp trong các bài thơ trữ tình nói về bất cứ câu chuyện tình nào. Lý do tưởng cũng dễ hiểu thôi, amants nói lên một liên hệ tình cảm mặn nồng gắn bó hơn là amis. Nhưng mặn nồng đó thể có chỉ là một đam mê giai đoạn. Người tình đã có lúc cùng ta yêu nhau thắm thiết, yêu nhau ra riết, yêu nhau hết biết (trời trăng là gì). Nhưng sau khi đã được cùng ta qua cơn mê rồi, biết đâu lại chẳng có một ngày người tình bỏ ta đi như con sông dài, để ta một mình ở lại khiến cuộc đời bỗng thấy  xanh rêu. Từ  amis ,trái lại, nói lên một gắn bó keo sơn bền vững. Amis không đồng nghĩa với camarades trong tiếng Pháp, cũng như bạn hữu không đồng nghĩa với bạn bè trong tiếng Việt. Bạn hữu nói lên sự gắn bó do tâm đầu ý hợp, hiểu được lòng nhau hơn nhờ trải qua nhiều thử thách. Bạn hữu ở đây có thể coi như tương đương với bạn đời hay bạn tri kỷ. Bạn bè để chỉ một sự liên kết có tính cách giai đoạn đua đòi thời thượng hay tưởng cùng chung một lý tưởng đấu tranh. Chơi với nhau một hòi tưởng thân thiết lắm. Ai ngờ chỉ sau một thời gian thấy chán nhau, có khi còn ghét nhau hoặc tìm cách thanh toán nhau là đằng khác. Vậy từ amis Prévert dùng ở đây là để nói lên mối liên hệ tình cảm bền vững, cũng như khi ta nói người "bạn đời" hay người "bạn tri kỷ" của tôi. Giả dụ, nếu muốn nói về những kỷ niệm của một cuộc tình đổ vỡ, có thể Prévert đã viết như sau để bày tỏ sự trách móc:
                             Hélas ! Je voudrais tant que tu te souviennes
                             Des jours heureux où nous étions amants
                             (Em hỡi ! Anh ước mấy em còn nhớ lại
                             Những ngày vui hai đứa mình thắm thiết yêu nhau.

Và toàn bài thơ, do đó, sẽ hướng ta theo một nội dung ý nghĩa khác. Bởi vậy từ amis Prévert dùng ở đây, là có dụng ý để nới lên sự gắn bó chung thủy.
        Sang đến hai câu ba và bốn :
          En ce temps-là la vie était plus belle (3)
                  et le soleil plus brûlant qu’aujourd’hui (4).
 Hai câu kế tiếp này là để nhắc nhở những kỷ niệm đẹp của cái thời hai người còn được sông bên nhau. Câu ba có thể chỉ là một câu nói bình thường  trong cuộc sống hàng ngày; nhưng nhờ vào cụm từ "En ce temps-là", tương đương với cụm từ"thuở ấy" hay "ngày xửa, ngày xưa", nên chúng lại mang chất thơ bỏi nói lên sự ngậm ngùi luyến tiếc một hoàng kim thời đại nay thuộc về dĩ vãng. Trong câu bốn, chỉ nội chữ " brûlant " cũng làm tôi phải nhức đầu, loay hoay mãi không biết dịch ra sao. Phải chi Prévert viết " plus rayonnant" hay "plus radieux", thì tôi có thể dịch thành "và mặt trời cũng huy hoàng hay rạng rỡ hơn bây giờ". Và tôi tin rằng dịch như vậy không khó khăn gì, nghe quen tai và thích hợp hơn. Nhưng dịch như vậy tôi e là muốn sửa lời  Prévert. Tôi tin rằng không phải Prévert không biết tới hai chữ "rayonnant" hay "radieux"; nhưng vì chúng được quen sử dụng nên trở thành lối mòn khuôn sáo.  Cuối cùng tôi đành tạm dịch, chỉ tạm dịch thôi, từ brûlant  ra thành rực đỏ, vì theo cảm nhận của tôi, Prévert chọn từ "brûlant" là có dụng ý hẳn hòi. Ông không  dùng từ « brûlant » để « mô tả » mặt trời.  Trái lại, dụng ý của ông là mượn hình tượng"brûlant" ghép với"soleil" để  nói lên nỗi đam mê nồng thăm của đôi tình nhân; cũng như từ  "Amis" nói lên sự đồng tâm đồng cảm của hai tâm hồn.
        Nếu bài thơ mở đầu bằng tiếng kêu than ngậm ngùi tiếc nuối(Oh!), phải chờ sang tới câu (5) ta mới biết thủ phạm gây ra nỗi xúc động: Đó là một cảnh thu. Mùa thu. Ôi, mùa thu ! Mùa của gió heo may thổi về kéo theo những chiếc lá vàng lượn bay trong gió. Mùa của gợi nhớ tình yêu và kỷ niệm. Mùa chọn lọc của các tao nhân mặc khách để rung lên tiếng tơ lòng mà sáng tác ra những áng văn, thơ tuyệt tác. Thử hỏi có mấy ai lại mát giây mát địa đi tìm cảm hứng trước đống lá vàng xơ xác được người phu quét đường vun thành đống trên vỉa hè ? Vậy mà Prévert lại viết ra câu Les feuilles mortes se ramassent à la pelle (5) để làm leimotiv hay câu nhạc chủ đề cho cuốn phim mang tựa đề Les portes de la nuit do ông soạn kịch bản. Không phải vì ông muốn tránh né những hình ảnh thơ mộng gợi cảm, nhưng dễ trở thành khuôn sáo. Mà cũng chẳng phải ông muốn đi tìm cái dị hợm sáng tạo. Lý do hình ảnh tầm thường của câu 5 này thực ra rất đơn giản: Prévert không làm thơ cho người đời đọc. Ông chỉ muốn bộc lộ tâm trạng trung thực, sống thực của người trong cuộc. Người trong cuộc đây là Diégo, một cựu kháng chiến quân, chứ không phải một thi sĩ. Bởi vậy Diégo không biết ngắm cảnh lá vàng rơi để rung đùi xuất khẩu thành thơ. Nhưng cảnh đống lá úa xơ xác tả tơi được vun thành đống như một nấm mộ hoang ấy, đã làm Diégo nhớ tới người yêu đang phải một mình nằm trong ngôi mộ lạnh lẽo nên mới bật lên tiếng than Ôi ! như một tiếng nấc nghẹn ngào. Và niềm thương cảm mãnh liệt đến độ Diégo đắm chìm trong mơ mộng, tưởng như đang được tâm tình với người yêu. Đó chính là ý nghĩa của động từ "voir" ở thì hiện tại (temps présent) trong câu (6):
      Tu vois,  je n’ ai pas oublié…(6)


Cái tài hoa của Prévert chính là chỗ đó. Là đã chọn một hình ảnh tầm thường, vô vị để nói về mùa thu ;  nhưng lại đóng khung hình ảnh đó trong một câu văn cô đọng, nhưng hàm súc, ý vị, đa tầng, đa nghĩa đem lại cho nó một sức mê hoặc lạ thường. Câu văn được lập lại ba lần, nhưng không  phải là một hình ảnh cứng nhắc chỉ đem lại một cảm xúc đơn điệu. Trái lại, mỗi lần được gợi lên, hình ảnh đó lại có tác dụng khác nhau, khơi động cảm xúc khác nhau tùy theo từng người. Thậm chí ngay cả với Diégo, nó cũng đánh dấu một chuyển biến tâm tư nơi nhân vật.
      Lân xuất hiện đầu tiên, nó đã khiến Diégo bật lên tiếng nấc nghẹn ngào Oh! vì thương cảm. Liền sau đó, hình tượng đống lá úa vun thành đống được lập lại lần thứ hai ở dòng 7. Nhưng lần lập lại này là để nói lên tác động vô hiệu của nó trước thái độ hầu như vô cảm của khách qua đường. Để nắm được sự khác biệt, ta cần lồng hình ảnh "đống lá úa"  trong ngữ cảnh của toàn bộ các dòng  sau đây:
                     Les feuilles mortes se ramassent à la pelle(7)
                     les souvenirs et les regrets  aussi (8)
                     et le vent du nord les emporte (9)
                    dans la nuit froide de l’oubli (10)

Cùng một hình ảnh được gợi lên chỉ cách nhau có một hàng, lần đầu nó làm Diégo liên tưởng tới người yêu Malou đang nằm một mình trong ngôi mộ lạnh lẽo, khiến anh ta xúc động phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào. Nhưng khi lập lại lần hai, chỉ cách một hàng, hình ảnh đó chỉ còn là một đống xác lá tầm thường vô vị với khách qua đường dửng dưng. Số phận của đống lá úa đó là chờ để được gió bấc cuốn đi, cũng như những bài thơ nói về mùa thu và kỷ niệm được chuyền tay người này qua người khác, nhưng chẳng bao lâu rồi cũng rơi vào quên lãng. Với Díego lại không phải thế, cũng chỉ là đống lá úa vô tri bất động, nhưng lại làm sống dạy bản nhạc kỷ niệm yêu đương từng được Malou  hát cho nghe. Đó là ý nghĩa của hai câu độc thoại nội tâm :
              Tu vois je n’ai pas oublié (11)
              la chanson que tu me chantais (12)

        Vậy là, chỉ bằng một hình ảnh quen thuộc tầm thường, Prévert đã đem lại cho câu nhạc một sức quyến hút bất thường khiến mỗi lần nghe giai điệu vọng lên, là hầu như hình tượng Les feuilles mortes se ramassent à la pelle lại hiện lên tâm trí người nghe. Bởi vậy nhiều người đã lầm tưởng đó là câu điệp khúc. Thực ra đoản khúc với những hàng chữ sau đây mới là điệp khúc: 
                   C’est une chanson qui nous ressemble (13)
                   Toi qui m’aimais (14)
                   et je t’aimais (15)
                   Et nous vivions tous deux ensemble (16)
                   toi qui m’aimais (17)
                   et que j’aimais .18)
                   Mais la vie sépare ceux qui s’aiment (19)
                   tout doucement (20)
                   sans faire de bruits (21)
                   et la mer efface sur le sable (22)
                   les pas des amants désunis. (23)

Là điệp khúc, bởi vì đoản khúc được lập lại hai lần, mỗi lần đều với lời lẽ và ý nhạc tương tự. (d.13 – d.23 và d. 36 -46). Là điệp khúc, tiếp đến, vì nó cho ta biết sơ lược về câu chuyện tình giữa Malou và Diégo. Câu chuyện tình đó gồm hai giai đoạn qua hai phần của điệp khúc. Phần đầu gồm sáu hàng (13-18) cho biết nhờ vào bản nhạc kỷ niệm hai người đã được sống hạnh phúc những giờ đằm thắm yêu đương. Tình yêu say đắm nồng nàn ấy, không được diễn tả bằng những lời lẽ hoa mỹ hay cường điệu. Trái lại, độc nhất chỉ có động từ aimer được lập đi lập lại bốn lần. Đó là một động từ quen thuộc sẵn sàng được thốt ra bởi bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào. Quen thuộc đến độ nó trở thành một loại ngôn từ điếm thúi (termes prostitués) như mấy chữ tự do, dân chủ, độc lập, hùng cường, yêu nước, thương nòi... Là ngôn từ điếm thúi bởi vì các từ này, nghĩa vốn thanh cao đã bị một số chính trị gia lõi đời, một vài nhà bình luận chuyên nghiệp, hay một số nhân vật đầu cơ chính trị, lấy việc thành lập tổ chức đấu tranh làm business, hoặc gây tranh cãi ồn ào để chứng minh sự tồn tại (chứ không phải sự hiện hữu) của mình. Và họ không ngần ngại khai thác  ý nghĩa thanh cao của các từ ngữ trên khiến chúng trở nên hoen ố chẳng khác gì thân phận của Thúy Kiều bị đám Sở Khanh, Tú Bà xô đẩy vào chốn thanh lâu cả. Nhưng với ai đã yêu và được sống với hạnh phúc tình yêu chân thực, thì động từ aimer được lập đi lập lại như thế, lại chứa chan ý nghĩa và mang nhiều chất thơ như mấy tiếng bi bô đầu đời của đứa trẻ học nói.

       Bên cạnh cách sử dụng từ aimer đó, ta cũng không nên bỏ qua một sửa đổi của Prévert trong bản thảo chót, đó  là ông đã viết ở dòng 18 "et que j’aimais" thay vì "et je t’aimais" như ở dòng 16 . Sửa đổi này, thoạt nhìn có vẻ chẳng có gì quan trọng cho lắm. Ngay đến các ca sĩ tài danh khi trình bày, cũng thường hát theo thói quen "et je t’aimais" thay vì "et que j’aimais", và vẫn được thính giả nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng. Có lẽ cũng vì thế mà khi lên trình diễn, hầu hết các ca sĩ thường chỉ lấy lời ca của đoản khúc một và điệp khúc, mà bỏ qua đoản khúc ba. Tôi cho rằng đây là một sự lơ là đáng tiếc. Đáng tiếc, bởi vai trò không kém quan trọng của đoản khúc này trong toàn bộ lời ca. Có nghe hết đoản khúc ba dưới đây, ta mới thưởng thức được ý vi đặc sắc các hình ảnh Prévert chọn để diễn tả tâm tình của Diégo:              
                          Les feuilles mortes se ramassent à la pelle (24)
                          les souvenirs et les regrets aussi. (25)
                          Mais mon amour silencieux et fidèle (26)
                          sourit toujours et remercie la vie. (27)
Je t’aimais tant tu était si jolie (28)
Comment veux-tu que je t’oublie (29)
En ce temps-là la vie était si belle (30)
et le soleil plus brûlant qu’aujourd’hui(31)
Tu étais ma plus douce amie 32)
Mais je n’ai que faire des regrets (33)
Et la chanson que tu me chantais (34)
toujours toujours je l’entendrais.(35)
         Mở đầu cho đoản khúc này là hai câu :
                          Les feuilles mortes se ramassent à la pelle (6),
                          les souvenirs et les regrets aussi(7)
được lập lại thêm lần nữa. Nhưng thay vì
                          et le vent du nord les emporte (8)
                          dans la nuit froide de l’oubli (9)
như ở đoản khúc một, ta lại có :
                             Mais mon amour silencieux et fidèle(26)
                             Sourit toujours et remercie la vie.(27)

Hai câu sau này được mở đầu băng chữ Mais cùng với những tĩnh từ silencieux, fidèle và động từ sourit, remercie kế tiếp cho thấy những kỷ niệm Malou làm sống dậy nơi Diégo không phải chỉ là những kỷ niệm do cảnh đẹp mùa thu gợi nhớ. Trái lại, mặc dù là nạn nhân của một hành động trả thù độc ác, nhưng vẻ đẹp dịu hiền cùng với bản tình ca Malou dành riêng cho Diégo, đã khiến mỗi lần nghe vọng lên giai điệu là một lần Diégo được sống lại hạnh phúc của thời yêu đương bên cạnh Malou. Đó là ý nghĩa của những câu chót của đoản khúc ba.  Có chú ý tới đoản khúc này, cũng như phần còn lại của toàn bộ lời ca, ta mới cảm nhận được cái ý vị và tài hoa của Prévert khi ông chọn hình ảnh những làn sóng biển tràn lên bãi cát làm  biểu tượng cho mối tình son sắt của Diégo với Malou. Dấu chân in của những cặp tình nhân trên bãi cát, đều bị sóng biển xóa đi, cũng như những kỷ niệm một thời yêu đương nơi người đời, rồi cũng chìm trong quên lãng như đống xác lá khô chờ được gió bấc cuốn đi. Nhưng với Diégo, hình ảnh sóng biển trên bãi cát lại mang một ý nghĩa biểu tượng khác. Nếu những lớp sóng liên tục đổ lên bãi cát xóa dần mọi vết chân đi, thì tiếng sóng rạt rào là tiếng hát thì thầm của người yêu để giúp Diégo được nghe thức dậy những kỷ niệm đẹp của thời sống hạnh phúc bên  Malou. Đó là ý nghĩa của hai câu :
                   Et la chanson que tu me chantais (34)
                   toujours toujours je l’entendrais. (35)

Ở hai câu này, không chỉ có ý mà còn nhịp điệu nhẹ nhàng nữa, đặc biệt là hai chữ toujour toujours trở đi trở lại như tiếng sóng rì rào khiến Diégo có cảm giác được nghe tiếng hát thì thầm muôn thuở của người yêu.



        Không ít người có thói quen làm thơ, viết văn để tạo ảo giác cho mình và ru ngủ người khác bằng những mỹ từ khuôn sáo và hình ảnh đánh bóng cuộc đời. Prévert không làm thơ. Ông chỉ viết lời cho bản nhạc làm nền cho cuốn phim về một cuộc tình dang dở. Một câu chuyện tình cũng như hàng trăm câu chuyện tình khác ở đời. Bởi vậy hình ảnh gợi lên chẳng có gì đặc biệt, nếu không muốn nói còn nhàm chán, tẻ nhạt thuộc về đời sống hàng ngày. Nhưng chính những hình ảnh tầm thường vô vị ấy đã cho thấy nỗi buồn thầm lặng cũng như nguồn an ủi của người trong cuộc. Cái tài hoa của Prévert là ở chỗ đó. Không phải bằng chất liệu đắt giá để dựng lên những khu biệt thự hoành tráng, nhưng rặt một khuôn mẫu. Trái lại, khi viết lời ca cho một giai điệu của Kosma, ông chỉ dùng chất liệu sơ khai thuộc loại đất thó để dựng lên môt túp lều lý tưởng cho hai trái tim vàng. Túp lều lý tưởng ở chỗ, chỉ bằng từ ngữ và hình ảnh thuộc về đời sống hàng ngày, nhưng với tài năng chọn từ, sắp câu, phân đoản khúc, ông đã đem lại cho lời ca một nội dung tình cảm ra khỏi khuôn mẫu sáo mòn: tiếng thì thầm riêng tư sống thực, chân thực của người trong cuộc. Có lẽ nhờ vào kỹ thuật truyền đạt theo mỹ học biểu tượng hay thi phái tượng trưng ấy, mà mỗi ca từ của ông đều chan chứa chất thơ theo đúng nghĩa thơ, khiến người đời đã lầm tưởng ca từ Les feuilles mortes là một bài thơ tuyệt tác được đem ra phổ nhạc.

Nguyễn Bảo Hưng
(*) Quí vị nào muốn nghe lại bản nhạc « Les feuilles mortes » qua kỹ thuật trình bày điêu luyện của nhiều ca sĩ tài danh khác nhau, mà không muốn mất công tìm kiếm trên Youtube, xin mời vào diễn đàn mạng Long Hồ - Vĩnh Long:


Kiếm bài "Jacques Prevert Với " Les Feuilles Mortes ", quí vị sẽ được lần lượt nghe bản nhạc này qua trình diễn của nhiều ca sĩ thời danh khác nhau như Cora Vaucaire, người đã lăng xê bản nhạc, Yves Montand, Doris Day. Bên cạnh đó, ta còn có dịp được tài năng của hai ca sĩ  với kỹ thuật trình bày điêu luyện, mà ngay giới sành nghe nhạc người Việt cũng ít biết đến. Đó là  Philippe Jaroussky với giọng ca opéra sẽ hát đày đủ toàn bộ ca từ Les feuilles mortes. Tiếp đến là nữ ca sĩ người Hòa Lan Laura Fygi, mà tên tuổi chắc còn xa lạ với cộng đồng người Việt. Phải có nghe hai ca sĩ này trình bày ta mới có cơ hội thưởng thức tài năng của họ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét