Nguyên tác Phiên âm
秋泉 Thu Tuyền
冷色初澄一帶烟 Lãnh sắc sơ trừng nhất đới yên
幽聲遥瀉十絲弦 U thanh dao tả thập ty huyền
長來枕上牽情思 Trường lai chẩm thượng khiên tình tứ
不使愁人半夜眠 Bất sử sầu nhân bán dạ miên
Tiết Đào Lý Dã Thi Tập - Đường - Tiết Đào 薛濤李冶詩集-唐-薛濤
Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句-宋-洪邁
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁 cho dị bản sầu 愁 thay vì tình 情 trong câu 3.
Ghi chú:
Thu: mùa thu tượng trưng cho buồn, nên Tiết Đào mượn mùa thu để viết về nỗi buồn
Trừng: rõ.
Tả: âm thanh có tính lan tỏa.
Huyền: chỉ đàn dây lớn.
Trường lai: dài hạn, đến thường xuyên, bất tận
Bất sử: đừng làm
Dịch nghĩa:
Suối Mùa Thu
Suối lạnh lẽo, dãi sương mù trên núi dần dần tan biến,
Tiếng suối trong đêm thanh vắng tỏa ra như tiếng đàn mười dây.
Âm thanh vô tận, nằm gối đầu cảm xúc trằn trọc đã lâu,
Hơn nửa đêm người buồn vẫn chưa ngủ được.
Dịch thơ:
Tiếng Thu
Suối lạnh đêm dài khói núi tan,
Đêm thanh róc rách như ai đàn.
Âm thanh bất tận nằm cô quạnh,
Gần sáng tình sầu vẫn chứa chan.
Autumn Spring by Xie Tao
Spring water was cold and clear, and the single layer of smoke (fog) on the mountains slowly disappeared
The running water in the quiet night sounded like the ten-string zither.
The sound was endless; head resting on a pillow, I felt lonely and sad,
And could not fall asleep until past midnight.
Phí Minh Tâm
***
Chú giải
初澄 sơ trừng: vừa mới lắng xuống, trong trẻo..
一帶烟 nhất đới yên: một dải mây.
幽聲 u thanh: âm thanh u-ẩn.
遥瀉 dao tả: diễn tả từ xa xa, xa xa nghe như…
十絲弦 thập ti huyền: cây đàn 10 dây.
長來 trường lai: nghĩa đen là: tới lâu dài, Trong câu này có nghĩa lả ở bất tận.
牽 khiên: Dắt đi; tiến thoái không được tự do cũng gọi là khiên.
牽情思 khiên tình tứ: bị tâm tư dẫn dắt đi bất định; dịch thoát là trằn trọc suy nghĩ.
長來枕上牽情思 Trường lai chẩm thượng khiên tình tứ: Nghĩa đen là: đầu kê trên gối quá lâu, trằn trọc suy nghĩ. Dịch thoát là: kê đầu trên gối nằm trằn trọc.
不使愁人半夜眠 bất sử sầu nhân bán dạ miên: nghĩa đen là: chẳng khiến cho người đang buồn rầu ngủ được suốt nửa đêm đài; dịch thoát là: lòng buồn, tới quá nửa đêm vẫn chưa ngủ được; Dịch gọn là: Quá nửa đêm buồn ngủ chẳng an.
Dịch nghĩa
Suối thu
Nước suối lạnh, sương khói tan dần,
Tiếng suối reo âm-u như tiếng đàn mười dây.
Kê đầu trên gối nằm trằn trọc đã lâu,
Lòng buồn, tới quá nửa đêm vẫn chưa ngủ được.
Dịch thơ
Suối Thu
Suối lạnh màn sương khói mới tan,
Âm-u như gẩy chục dây đàn.
Kê đầu trên gối nằm trằn trọc,
Quá nửa đêm buồn ngủ chẳng an.
Con Cò
***
Suối Thu
Suối lạnh núi cao sương dần tan biến
Róc rách đêm thanh như tiếng đàn khơi
Gối đầu trằn trọc âm vọng khôn ngơi
Nửa đêm về sáng chẳng vơi nỗi sầu
Kim Oanh
***
Suối Thu.
Suối lạnh sương mờ khói núi bay,
Tiếng reo vọng lại tưởng đàn dây.
Gối đầu trằn trọc tơ vương mãi,
Quá nửa đêm sầu giấc chẳng say.
Mỹ Ngọc
Apr. 5/2024.
***
Suối Vào Thu
Suối lạnh khói mờ sương mãn khai
Đêm thanh nước chảy ngỡ đàn ai
Âm trong thánh thót… buồn cô đọng
Trăn trở đêm dài sầu chẳng phai
Kiều Mộng Hà
Austin.4.5.24
***
Suối Thu
Khí lạnh vừa ngưng sợi khói bay
Suối từ thanh vắng tựa đàn dây
Đã lâu bên gối gieo tình tứ
Chẳng khiến người sầu dỗ giấc say!
Lộc Bắc
***
Thu TuyềnSương khói tan dần chốn lãnh tuyền
Suối reo đêm vắng tựa đàn huyền
Âm thanh vang vọng chập chờn giấc
Trăn trở thâu đêm nỗi muộn phiền
Thanh Vân
***
Năm 2019, BS có viết bài “ Lá Gió Cành Chim “, nhắc tới 2 câu thơ của Tiết Đào, làm tiếp thơ của cha là Tiết Trịnh:
Chi nghinh nam bắc điểu,
Diệp tống vãng lai phong,
mà Tố Như đã mượn ý mà viết trong Kiều:
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
BS kể về cuộc đời thăng trầm của nàng và mối tình với Nguyên Chẩn.. Tiết là người có tài, có sắc mà đa truân, sau chán đời, đi tu.
Bài thơ anh Tâm đưa ra rất hay, nhưng dịch hơi khó.
Chữ Thu, anh Giám giải thích khác với Tạ Quang Phát trong “Hán Văn Giải Tự”: thu giả bách cốc thành thục chi kỳ, thu vi thu thành.
Chữ Sầu, là ghép 2 chữ Thu và Tâm : cảnh mùa thu làm lòng người buồn bã.
Suối Thu
Suối lạnh xuôi dòng, khói đã tan,
Âm thanh văng vẳng tựa ai đàn,
Mơ màng trên gối, lòng xao xuyến,
Khiến kẻ u buồn giấc chẳng an.
Bát Sách.
(ngày 06/04/2024)
***
Thơ Cảm Tác:
Mái tôn tí tách mưa đàn
Nhạc trời ủ rũ tuôn màn nước rơi
Em ở đâu? Anh một nơi
Tình nồng nhớ lại hết ngơi đêm dài!
Đồ Cóc
***
Góp Ý
Tôi không dùng Hán Văn Giải Tự nên không biết Tạ Quang Phát lấy câu "thu giả bách cốc ... " từ đâu ra nhưng câu văn đó là như thế này trong Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư: 麦秋至秋者百榖成熟之期此于时虽夏于麦则秋故云麦秋也汲蒙书作小暑至=mạch thu chí thu giả bách cốc thành thục chi kỳ thử vu thì tuy hạ vu mạch tắc thu cố vân mạch thu dã cấp mông thư tác tiểu thử chí. [ 蒙书=mông thư hình như loại sách không rõ xuất xứ, hay không chính xác, và toàn câu lược dịch thành: mạch thu chí là lúc ngũ cốc chín, lúc đó tuy còn là mùa hạ nhưng vì lúa mạch chín nên cũng là mùa thu, và vài sách viết thành tiểu thử chí]
Đây là một đoạn văn nói về tứ thời bát tiết. Vì văn trong Tứ Khố Toàn Thư không có chấm câu, TQ Phát - một người theo Tây học rồi tự hoc chữ Hán! - bắt đầu câu thiếu chữ 麦=mạch ở đầu câu rồi hiểu tào lao; câu đó nói về 至=chí mạch thu, không phải là câu định nghĩa mùa thu hay giải thích ngữ nguyên của từ thu.
***
Mùa thu và nỗi buồn trong văn thơ Hoa Lục.
Nhiều người Tàu dùng câu 秋字下加心是愁=thu tự hạ gia tâm thị sầu [chữ thu thêm tâm ở dưới là sầu] khi bàn về bài Thu Tuyền này y như thể muốn giải thích ngữ nguyên của chữ 愁=sầu, nhưng có đúng vậy không?
Từ 秋=thu bây giờ viết với bộ 禾=hòa và từ 火=hỏa. Đây không phải là lối đặt chữ hình thanh mà có thể xem như là hội ý, hoặc hàm nghĩa lúa chín đầu thu, hay sự kiện người Tàu đốt ruộng lúa sau mùa gặt (để giết trứng côn trùng). Giải thích thứ nhì có vẻ hợp lý hơn vì chữ giáp cốt văn nguyên thủy cho thu vẽ hình một con côn trùng nào đó ở trên núi, hay từ núi đến (h. 1). Quách Mạt Nhược nghĩ rằng đây là hình tượng con dế kêu trong mùa thu; nhưng cũng có thể rằng đây là hình vẽ con cào cào – nạn cào cào cắn lúa là thiên tai tạo nhiều nạn đói xưa nay. Lối viết cho thu thay đổi dần với thời gian, một phần có lẽ vì nạn Tần Thủy Hoàng đốt sách, các bộ 禾 và 火 xuất hiện với hàm ý không rõ, nhưng tôi vẫn tìm được các lối viết này (h. 2,3)
và thế có nghĩa rằng, trong một thời điểm nào đó, người Tàu xem mùa thu là mùa đốt rơm rạ ngoài ruộng để ngừa côn trùng trước mùa trồng trọt tới.
Từ 愁=sầu, trái lại, là một từ hình thanh, viết với bộ 心 và âm 秋, và chỉ có mặt trong tiểu triện, nghĩa là ra đời sau 秋 rất xa.
[《說文》: 憂也。从心,秋聲 Thuyết Văn: ưu dã. tòng tâm, thu thanh ]
Thời bây giờ hai từ 愁=sầu/chóu và 秋=thu/qiū phát âm khác nhau trong tiếng Tàu lẫn Việt nhưng thời cổ cả hai đều phát âm với nguyên/chánh âm /iw/. Và như thế có nghĩa rằng, cho dù mùa thu có thể là hình tượng của nỗi buồn, thu không phải là ngữ nguyên cho sầu.
Huỳnh Kim Giám
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét