Ta đã thấy kỹ thuật tả tình và tả cảnh của Lý Thương Ẩn qua ngũ ngôn tứ tuyệt. Hôm nay xin giới thiệu một bài thơ ngũ ngôn bát cú đặc biệt (nhìn cảnh tả người) của ông, bài 北青蘿 Bắc Thanh La.
Nguyên tác Dịch âm
北青蘿 Bắc Thanh La
殘陽西入崦 Tàn dương tây nhập yểm*,
茅屋訪孤僧 Mao ốc phỏng cô tăng.
落葉人何在 Lạc diệp nhân hà tại,
寒雲路幾層 Hàn vân lộ kỷ tằng.
獨敲初夜磬 Độc xao sơ dạ khánh,
閑倚一枝藤 Nhàn ỷ nhất chi đằng.
世界微塵裡 Thế giới vi trần lý**,
吾寧愛與憎 Ngô ninh ái dữ tăng.
Chú giải:
* Yểm: từ chữ "yêm". Núi Yêm Tư, xưa bảo chỗ ấy là chỗ mặt trời lặn, nên lúc nhá nhem tối gọi là "nhật bạc yêm tư ". ** Thế giới vi trần lý: trích Kinh Lăng Nghiêm "Nhân tại thế gian, trực vi trần nhĩ, hà tất câu ư tăng ái, nhi khổ thử tâm dã " (Người trong thế gian như hạt bụi nhỏ, sao lại bận tâm đến kẻ yêu người ghét chi cho khổ thân).
Dịch nghĩa:
Phía Bắc Núi Thanh La
Mặt trời lặn xuống núi phía tây
Đến lều cỏ thăm nhà sư ở một mình
Lá rụng, không biết người ở đâu
Mây lạnh, đường lên khúc khuỷu mấy tầng
Một mình gõ khánh trong đêm
Nhàn nhã tựa vào một nhành dây leo
Con người ở thế gian (như) là hạt bụi nhỏ
Ta bận tâm làm gì chuyện yêu ghét
Dịch thơ
Phía Bắc Núi Thanh La
Vừng ô đang khuất núi
Lều cỏ viếng sư côi
Lá rụng người đâu nhỉ?
Mây lạnh ngõ chơi vơi
Một mỉnh đêm gõ khánh
Dựa cây leo thảnh thơi
Ta bà hòn bụi nhỏ
Yêu ghét mặc kệ đời
Lời bàn:
Nhìn vào đầu đề tưởng sẽ được thấy một cảnh đẹp ở phía bắc núi Thanh La nhưng tất cả 8 câu đều tả một cao tăng đắc đạo.
- Câu 1 & 2:
Mở đề. Nói rằng tới lều cỏ thăm nhà sư lúc chiều tà. Không nói gì đến núi Thanh La; tuy có nói đến chữ núi nhưng chữ núi này chỉ dùng để chỉ thời điểm (lúc mặt trời khuất núi, tức lúc chiều tà) chứ không liên hệ gì tới ngọn núi Thanh La. Tưởng như lạc đề nhưng đọc xuống câu kế tiếp thì thấy rằng ông dùng hai câu này để mở đề cho một bài thơ tả người (nhà sư) chứ không mở đề cho bài thơ tả cảnh. Lối móc nối của Lý thường bí ẩn như vậy (không đơn thuần như thơ Bạch Cư Dị), độc gỉa phải vận dụng trí óc khi đọc mỗi câu thơ.
- Câu 3:
Không thấy nhà sư mà chỉ thấy lá rụng đầy. Câu (5 chữ) này vừa gài được cảnh Thu vào đề tài vừa nêu được cái mục tiêu tìm người sống ẩn dật. Khéo vô cùng.
- Câu 4:
Tả cái cổng chùa nằm trong đám mây lạnh; nhưng kỳ thực là tả độ cao của chùa nằm trên núi. Nói cái này nhưng tả cái khác; biến hóa khó lường.
- Câu 5 & 6:
Tả lối tu cô đơn và thanh nhàn của nhà sư. Đây mới thực là ý chính mà tác gỉa muốn đề cập tới. Lạc đề thêm một nấc nữa: Đầu đề của bài thơ là tả cảnh; 4 câu đầu lại tả người (lạc đề nấc 1); hai câu 5 & 6 không tả người mà chỉ tả cái phong thái siêu phàm của người ấy (lạc đề nấc 2). Rất độc đáo: giới thiệu cái này, mô tả cái khác.
- Câu 7 & 8:
Muốn nói rằng nhà sư đã thoát tục (đắc đạo). Hai câu này giải thích rằng cái phong thái siêu phàm vừa nói trong hai câu trên là sự thoát tục (đắc đạo) của nhà sư.
Đọc hết 8 câu mới biết họ Lý tả một nhà sư đắc đạo. Độc giả cảm thấy thú vị vì những biến chuyển bất ngờ chứ không còn bực bội về sự lạc đề nữa.
Tái bút:
Nếu bạn đi thi cử nhân văn chương ban Hán văn và gặp đầu đề “Tả cảnh phía bắc núi Thanh La” mà bạn nộp bài thơ này thì điểm của bạn sẽ là zero vì nó lạc đề: đề thi là tả cảnh mà bạn lại tả người (thí sinh trường Y Khoa Saigòn gọi là làm bài thi lộn chapitre ).
Con Cò
***
Nguyên tác: Phiên âm:
北青蘿 -李商隱 Bắc Thanh La - Lý Thương Ẩn
殘陽西入崦 Tàn dương tây nhập Yểm
茅屋訪孤僧 Mao ốc phóng cô tăng
落葉人何在 Lạc diệp nhân hà tại
寒雲路幾層 Hàn vân lộ ky tằng
獨敲初夜磬 Độc xao sơ dạ khánh
閑倚一枝藤 Nhàn ỷ nhất chi đằng
世界微塵裏 Thế giới vi trần lý
吾寧愛與憎 Ngô ninh ái dữ tăng
Lý Thương Ẩn Thi Tập 李商隱詩集
Đường Lý Nghĩa San Thi Tập -Đường- Lý Thương Ẩn Soạn 唐李義山詩集-唐-李商隱撰
Lý Nghĩa San Thi Tập Chú -Đường- Lý Thương Ẩn 李義山詩集注-唐-李商隱
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
Ghi chú:
thanh la: một loại thực vật mọc trên vách đá,
Thanh La: tên núi, trong núi Vương Ốc.
Yểm: là núi Yểm Tư ở Cam Túc, truyền thuyết cổ xưa được sử dụng để chỉ nơi mặt trời lặn.
sơ dạ: hoàng hôn.
khánh: nhạc cụ gõ cổ xưa, có hình dạng giống như thước khúc, được làm bằng ngọc bích hoặc đá. Một loại vật giống như một loại cồng chiêng được sử dụng trong chùa, được đúc bằng đồng sắt, có thể là một nhạc cụ gõ khi tụng kinh, hoặc gõ cùng các nhạc khí khác.
thế giới: thế gian, trần thế theo ngôn ngữ Phật giáo
vi trần: hạt bụi nhỏ bé theo ngôn ngữ Phật giáo. Hai chữ này được dùng nhiều lần trong các bộ Kinh Phật như: Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Già, Kinh Kim Cang…Riêng trong bộ Kinh Hoa Nghiêm dày trên 5000 trang, hai chữ vi trần được dùng gần 1070 lần.
lý: ở bên trong. Trong câu 7, chữ lý nào đúng? Tất cả các mộc bản đều xài chữ lý裏=cái gì ở trong; không phải lý理=lẽ phải như trong đạo lý; không phải lý俚=quê kệch; và cũng không phải chữ lý với bất cứ bộ chữ nào khác. Thi viện xài lý裡=lớp vải lót trong áo, không phải chữ trong các mộc bản dù có thể cùng một nghĩa.
thế giới vi trần lý: thế gian là (ở bên trong) một hạt bụi nhỏ bé, giáo lý của Phật giáo về thế gian (LTẨ viết theo Kinh Phật; mời xem thêm phần thảo luận bên dưới.)
ninh: tại sao.
Dịch nghĩa:
Bắc Thanh La Phía Bắc Núi Thanh La
Tàn dương tây nhập Yểm Mặt trời lặn sau núi Yểm Tư ở phía tây,
Mao ốc phỏng cô tăng Đến lều tranh thăm nhà sư ở một mình.
Lạc diệp nhân hà tại Lá rụng, không biết người ở đâu,
Hàn vân lộ kỷ tằng Mây lạnh, đường lên chập chùng mấy tầng.
Độc xao sơ dạ khánh Một mình gõ khánh vào đầu đêm,
Nhàn ỷ nhất chi đằng Nhàn nhã tựa vào dây sắn leo.
Thế giới vi trần lý Thế gian là (ở bên trong) một hạt bụi nhỏ bé,
Ngô ninh ái dữ tăng Ta há bận tâm làm gì đến chuyện ghét thương.
Vào thời lúc khó khăn trong cuộc sống, gia đình bạn bè ly tán, Lý Thương Ẩn có một giai đoạn muốn cầu tiên học đạo ở Ngọc Dương. Theo trang Bách Khoa Bách Độ, năm Đường Văn Tông Đại Hòa thứ hai (828? không chắc đúng năm vì lúc đó Lý Thương Ẩn mới 15 tuổi), trên đường đi tìm một nhà sư sống nơi xa xôi thanh bần để giải tỏa nỗi đau khổ của mình. Mặt trời vừa lặn sau núi Yểm Tư. Lá rừng rụng nhiều nhưng không bóng người. Mây lạnh, đường lên núi chập chùng, chợt nghe tiếng chuông khánh đầu hôm từ lều tranh của nhà sư. Thi nhân tĩnh ngộ được chân lý nên nhàn nhã vịn vào dây leo và kết thúc bài thơ với 2 câu tràn đầy thiền ý:
Thế giới vi trần lý
Ngô ninh ái dữ tăng
Dịch thơ:
Bắc Thanh La
Mặt trời lặng núi Tây,
Đến viếng thăm sư thầy.
Lá rụng người đâu đấy,
Chập chùng lạnh đến mây.
Cô đơn đêm gõ khánh,
Nhàn nhã vịn vào dây.
Trần thế hạt bụi nhỏ,
Cớ chi thương ghét đây?
North Of Green Vines Mountain by Li Shang Yin
The evening sun sets behind the Yanzi Mountains in the west,
I've come to a thatched cottage to an isolated Buddhist monk's acquaintance make.
Where is the venerable one among fallen leaves all around?
On my way here, clouds have been building in the cold, layer after layer.
Then I see him striking the first evening bell on his own,
When he takes a rest he pauses and leans against his cane.
The kaleidoscopic universe is nothing more than a grain of dust,
How could I insist on clinging onto love and hate?
In the North Among Green Vines by LI Shangyin
Translation by Betty Tseng
The evening sun sets behind the Yanzi Mountains in the west,
I've come to a thatched cottage to an isolated Buddhist monk's acquaintance make.
Where is the venerable one among fallen leaves all around?
On my way here, clouds have been building in the cold, layer after layer.
Then I see him striking the first evening bell on his own,
When he takes a rest he pauses and leans against his cane.
The kaleidoscopic universe is nothing more than a grain of dust,
How could I insist on clinging onto love and hate?
At Bei Jing Luo Monastery by Li Shangyin
Translation by Innes Herdan
The sun drops west into Yan hills.
At a thatched hut I seek the hermit monk.
In all these falling leaves where is my friend?
The path is lost in billows of cold mist.
Alone in the dusk he is striking the stone gong:
I lean upon my staff and listen idly.
Frail dust set in this human world,
I cease to concern myself with love and hate.
North Among Green Vines by Li Shangyin
Translation by Witter Bynner
Where the sun has entered the western hills,
I look for a monk in his little straw hut;
But only the fallen leaves are at home,
And I turn through chilling levels of cloud
I hear a stone gong in the dusk,
I lean full-weight on my slender staff
How within this world, within this grain of dust,
Can there be any room for the passions of men?
Phí Minh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét