- Năm
Nguyên Hòa thứ 10, Bạch Cư Dị bị biếm trích về đất Giang Châu.
Năm sau, đêm thu tiễn bạn nơi bến Tầm Dương, cảm tiếng tỳ bà
của người ca kỷ già bỏ thân lưu lạc, làm cám cảnh mình bó
thân chỗ lưu đày mà viết nên Tỳ Bà Hành
- Năm
thất quốc thứ 43, tôi vì nạn nước, lưu lạc quê người hơn 40
năm, đọc lại hành của Tư Mã Giang Châu mà cám cảnh mình, bèn
phóng bút dịch ngang ra lục bát. Hay? Dở? Đúng? Sai? Mặ!
- Chuyện xưa viết lại nỗi mình. Trăm đau nghìn hận, mình mình thương vay
琵琶行
潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦 .
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
Tỳ Bà Hành
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách,
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt.
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tực tực đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu
Đại huyền tào tào như cấp vũ
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽流景水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt,
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than.
Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.
Biệt hữu u sầu ám hận sinh,
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính,
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch.
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch.
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn,
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung,
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú.
Thập tam học đắc tỳ bà thành,
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố.
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu,
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船明月江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
往近湓城地底濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
Điền đầu ngân tì kích tiết toái,
Huyết sắc la quần phiên tửu ố.
Kim niên hoan tiếu phục minh niên,
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.
Đệ tẩu tòng quân a di tử,
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy,
Lão đại giá tác thương nhân phụ.
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ.
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền,
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn.
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự,
Mộng đề trang lệ hồng lan can.
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức,
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,
Tương phùng hà tất tằng tương thức.
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh,
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành.
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc,
Chung tuế bất văn ty trúc thanh.
Trú cận Bồn giang địa thế thấp,
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.
Kỳ gian đán mộ văn hà vật,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh.
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh.
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch,
Âu á triều triết nan vi thính.
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ,
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc,
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành.
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập,
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp.
Thê thê bất tự hướng tiền thanh,
Mãn toạ trùng trùng văn giai yểm khấp
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa
Giang Châu tư mã thanh sam khấp
Phỏng Dịch:
Tỳ Bà Hành
Đêm Tầm Dương, tiễn người đi
Lá mùa thu quạnh thầm thì nỗi riêng.
Người xuống ngựa, kẻ dưới thuyền
Sáo đàn không tiễn rượu phiền không vui.
Men say càng thấm ngậm ngùi
Trăng soi mặt nước lòng vùi dập đau.
Vẳng đâu vọng lại tiếng sầu
Giây tỳ bà, điệu kinh cầu ... nghẹn tim !
Tiếng đàn chìm giữa lòng đêm,
Người đi kẻ ở buồn kềm lòng nhau.
Hỏi han cho rõ âm hao.
Tỳ bà bặt tiếng ly tao ! Ngại ngùng ?
Ghé thuyền tỏ dạ khiêm cung,
Bình sinh mấy thuở trùng phùng nghiệp hoa
Khêu đèn, bày tiệc cùng ta,
Ân cần mời gọi gần xa mấy lần.
Đàn che nửa mặt, phân vân.
Tay so cần trúc tay lần giây tơ.
Cung cầm vừa mới dạo hờ,
Mà sầu dạ khách đã mờ... mờ...đêm.
Thiết tha từng sợi tơ mềm,
Năm cung réo rắt từng niềm bi thương.
Khúc đầu tay lựa Nghê Thường,
Đàn Lục Yêu chuyển như mường tượng mưa,
Rạt rào âm nhặt âm thưa,
Khi to khi nhỏ cho vừa nỉ non.
Lại khi tiếng mất tiếng còn,
Tiếng chim lượn gió, tiếng dồn suối xa,
Lúc róc rách, lúc vỡ òa,
Rồi ngưng bặt như nước đà lập đông.
Tình buồn đọng cứng cõi lòng,
Thinh im mà tưởng phiêu bồng cõi mơ.
Đang khi nín lặng như tờ,
Dưng không chuyển động tưởng cờ lịnh bay.
Rập rình vó ngựa dặm dài,
Quân đi cuốn gió lung lay đất trời.
Rồi ...dưng trời đất chơi vơi,
Tay thuôn bốn ngón ghìm hơi tỳ bà.
Đàn kêu tiếng xé lụa hoa.
Rồi im. Rồi nín. Rồi là ... nghẹn câm.
Bốn bề lặng lẽ, u trầm,
Chỉ trăng thu lạnh dọi thầm sông thu.
Gác đàn, gài phím, ôn nhu,
Rằng quê thiếp vốn kinh đô thị thành.
Hà Mô lăng, quê mẹ sanh,
Mười ba tuổi đã rành cung tỳ bà.
Danh lừng năm ngón tài hoa,
Mỗi nắn phím, mỗi tụng ca rộn ràng.
Mỗi ghen tức, mỗi điểm trang,
Thu Nương cũng phải chịu hàng lánh xa.
Lời ca đổi vóc lụa là,
Lược trâm bắt nhịp ngọc ngà vở tan.
Những chàng trai trẻ Ngũ Lăng,
Nghìn vàng mua lấy cung đàn mỹ nhân.
Quần hồng lấm giọt rượu ngon,
Đời vui cứ tưởng vuông tròn mãi sau.
Ai ngờ vui chốc buồn lâu,
Tử sinh ai biết, cơ cầu ai hay.
Cô già tuổi hạc vụt bay,
Tùng chinh em chịu đắng cay vạn phần.
Thoắt chiều thoắt sáng, hoa tàn.
Sắc phai vẻ thắm, hương tan vị mời.
Cổng nhà sớm vắng, chiều lơi,
Ngựa xe qua chẳng ghé lời hỏi han.
Ngày qua tháng tới, muộn màng,
Gá thân nương dựa khách buôn thương hồ.
Kẻ trần tục, nhám tay thô,
Sớm chiều quên lãng bỏ cô độc người.
Khuya hôm thuyền lỡ làng trôi,
Cảm thân thế, mộng lại thời xuân xanh !
Lệ buồn ướt đẫm từng canh,
Nhòe son, nhạt phấn cho đành chiêm bao.
Tỳ bà đã giục cơn sầu,
Kiếp hồng nhan lại làm đau nỗi mình !
Cùng chung kiếp nạn điêu linh,
Gặp nhau chẳng đợi phải tình thân quen.
Nghĩ mình đã lắm ưu phiền,
Tầm-Dương-đất-trích buồn riêng chuyện đời.
“ Xứ xa lạ cảnh lạ người,
Sớm trưa chiều tối khuya thui thủi buồn.
Ngày qua rồi tháng theo luôn,
Năm theo vội vã như ruồng rẫy nhau.
Một đời quá nửa chiêm bao,
Nửa rầu hận nước, nửa đau hận mình
Buồn vui rồi cũng làm thinh,
Ai chia ai xẻ những bình minh tươi.
Buồn vui rồi cũng ngậm ngùi,
Ai than thở những chiều rơi quạnh chiều.
Ở đây vui ít buồn nhiều,
Rượu đơn chiếc đắng trăm điều dở dang !
Mỗi ngày mỗi cuộc điêu tàn,
Ai người san bớt nỗi hoang tịch đời “ (*)
Ở đây buồn một riêng tôi,
Sao đem cung điệu làm bồi hồi nhau.
Riêng, chung cũng một thành sầu,
Vì nhau gảy lại khúc đau đoạn trường.
Lặng người, lắng lại tang thương,
Bốn giây bật khóc bài trường hận ca.
Cung trầm cung bổng thiết tha,
Điệu sầu điệu oán xót xa điệu lầm.
Tiếng đàn dứt, lệ khôn cầm !
Áo-xanh-một-thuở khóc thầm, từ khi ...
Cao Vị Khanh
(*)thơ riêng ghép với buồn chung, một vần
bài rất hay
Trả lờiXóa