Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2022

Đăng Dư Can Cổ Huyện Thành 登余干古縣城 - Lưu Trường Khanh (Thịnh Đường)


Lưu Trường Khanh 劉長卿 (709-780) tự Văn Phòng 文房, người Hà Gian (nay là huyện Hà Gian, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc) đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 21, làm quan đến thứ sử Tùy Châu. Tác phẩm có Lưu Tùy Châu tập.

Nguyên bản         Dịch âm

登余干古縣城     Đăng Dư Can Cổ Huyện Thành

孤城上與白雲齊 Cô thành thượng dữ bạch vân tề,
萬古荒涼楚水西 Vạn cổ hoang lương Sở thuỷ* tê (tây).
官舍已經秋草沒 Quan xá dĩ kinh thu thảo một,
女牆猶在夜烏啼 Nữ tường do tại dạ ô đề.
平沙渺渺迷人遠 Bình sa diểu diểu mê nhân viễn,
落日亭亭向客低 Lạc nhật đình đình hướng khách đê.
飛鳥不知陵谷變 Phi điểu bất tri lăng cốc biến,
朝來暮去弋陽溪 Triêu lai mộ khứ dặc dương khê.

Chú giải

水 thủy: 1/ nước; 2/ một từ chung cho sông, ngòi, lạch, khe, suối, hồ, ao…, tất cả những cái gì do nước mà sinh ra. 3/ sao Thủy: hành tinh gần mặt trời nhất.
*Sở thủy: Tên cũ chỉ khúc sông Trường Giang chảy qua Giang Tây, xưa thuộc nước Sở thời Chiến Quốc. Sau thời Đường, người ta không dùng cụm từ Sở thủy để chỉ sông Sở nữa. Những thi hào thời xưa chỉ dùng nó như một tên cổ đề chỉ một đoạn của Trường Giang chảy qua nước Sở cũ mà thôi.
Lăng cốc biến: chỉ vạn vật biến đổi không ngừng
低 đê: cúi xuống (ngược với ngẩng lên)

Dịch nghĩa

Lên Cổ Thành Huyện Dư Can

Cái thành chơ vơ này, lầu cao gần tới mây trắng,
Thành nằm bên bờ tây sông Sở cũ, bỏ hoang đã nhiều năm.
Nhà quan huyện ở nay chìm trong cỏ thu dại,
Tường bao quanh thành là chỗ cho quạ kêu đêm.
Bãi hoang bát ngát làm khách xem mê mải,
Mặt trời chiều đang lặn to lớn dần trước mặt khách.
Chim bay không biết cảnh tang thương biến đổi,
Vẫn cứ sáng đi chiều về nẻo suối tối om.


Dịch thơ

Lên cổ thành huyện Dư Can
Thành côi hun hút tận mây cao,
Sông Sở* bờ tây vạn cổ sầu.
Cỏ dại vây nhà quan huyện cũ,
Tường thành dung túng quạ kêu thâu.
Bãi hoang bát ngát ru người lạ,
Ác lặn nghênh ngang khách cúi đầu.
Chim lượn chẳng màng đời dâu bể,
Sáng đi tối đến suối thâm sâu./.


Con Cò

Dư Can nay là huyện cùng tên thuộc tỉnh Giang Tây. tác giả làm bài này khoảng năm 761 khi thời gian bị biếm trích đi Phan châu đã mãn hạn; trên đường trở về kinh đô, nhân lên thăm cổ thành của huyện này. Ông trút hết nỗi sầu hận chất chứa trong mấy năm bị biếm lên cái thành cổ hoang phế này; cả con chim bay lượn trên thành cũng bị ông mắng lây (rằng sao không bỏ quách cái thành khốn nạn này mà đi nơi khác!).

***
Lên Thành Cổ  Huyện Dư Can

Thành cô lầu vút trắng màu mây
Bỏ phế nhiều năm mé nước tây
Nhà huyện ngày xưa, thu thảo lấp
Tường bao hiện tại, quạ kêu bầy
Bãi bằng bát ngát người mê mải
Ngày khuất mênh mông khách ngó ngây
Chim chóc nào hay thời biến đổi
Chiều đi, sáng lại khắp khe này!


Lộc Bắc
***
Lên Thành Cổ  Huyện Dư Can

Thành xưa cao ngất đứng chơ vơ,
Cũ kỹ bên sông cảnh xác xơ.
Nhà cửa cỏ thu len rậm rạp,
Tường thành quạ tối rúc buồn so.
Đồng hoang bát ngát người ngơ ngẩn,
Ác lặn dần to khách sững sờ.
Chim cát nào hay đời biến đổi,
Chiều đi sáng tới suối u mờ.

Mỹ Ngọc 
July 16/2022.
***
Lên Huyện Thành Cổ Dư Can

Thành côi cao vút tới chân mây,
Hoang phế nhiều năm mé Sở tây,
Cỏ thu vùi kín nhà quan huyện,
Nóc tường kêu tối,quạ một bầy,
Bãi hoang bát ngát mê lòng khách,
Nắng chiều loang loáng mắt người cay,
Chim chóc biết đâu đời biến đổi,
Chiều đi,sáng lại Dã Dương đây.

Bát Sách.
(ngày 17tháng 07năm 2022)
***
Viếng thành xưa

Bên bến sông chon von phế tích
Thành quách xưa tịch mịch hoang tàn
Huyện đường cỏ mọc tràn lan
Tường loang lổ quạ kêu ran đêm trường
Dõi nhìn ánh tà dương viễn khách
Dòng nước trôi lau lách chập chờn
Kìa khe suối tối om om
Chim bay buổi sáng chiều hôm lại về

Yên Nhiên
***
Nguyên bản:          Phiên âm:

登餘干古縣城       Đăng Dư Can Cổ Huyện Thành

孤城上與白雲齊1 Cô thành thượng dữ bạch vân tề
萬古荒凉楚水西2 Vạn cổ hoang lương Sở thủy tê
官舍已空秋草綠 Quan xá dĩ không thu thảo lục
女墻猶在夜烏啼 Nữ tường do tại dạ ô đề
平江渺渺來人逺3 Bình giang miểu miểu lai nhân viễn
落日亭亭向客低 Lạc nhật đình đình hướng khách đê
沙鳥不知陵谷變 Sa điểu bất tri lăng cốc biến
朝飛暮去代陽溪4 5 Triêu phi mộ khứ Dặc Dương khê

Dị bản:
1điều đệ sở 迢遞楚 thay vì thượng dữ bạch上與白
2 tiêu điều蕭條 thay vì hoang lương荒凉
3 tịch 夕 thay vì viễn逺 (bản LTK hành nhân độ行人度)
4 hoàn還 thay vì phi飛 (bản LTK lai來)
5 vãng徃 thay vì khứ去


Mộc bản 
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁 cho 5 dị bản bên trên. Trước đây tôi cứ nghĩ đởi Thanh vẽ vời tạo nhiều di bản. Qua bài thơ này, ta thấy các dị bản đã có từ bài nguyên thủy trong sách Lưu Tùy Châu Tập - Đường của Lưu Trường Khanh 劉隨州集-唐-劉長卿 dù dị bản 3 và 4 có khác. Các sách bên dưới in bài không dị bản dể đọc hơn:

Đường Thi Cổ Xuy - Kim - Nguyên Hảo Vấn 唐詩鼓吹-金-元好問
Tài Điều Tập - Thục - Vi Hộc 才調集-蜀-韋縠
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄-清-徐倬
Đối Sàng Dạ Ngữ - Tống - Phạm Hi Văn 對床夜語-宋-范晞文

Ghi chú:

Dư Can: nay là huyện Dư Can, Giang Tây
Cô thành: thành phố biệt lập có tường bao quanh
Điều đệ: cao và dốc đứng
Vạn cổ: thiên cổ, vĩnh cửu, trải qua nhiều thế hệ
Hoang lương: hoang vắng, tiêu điều
Tiêu điều: cảnh buồn tênh, lá rụng trụi chỉ còn cành trơ, suy thoái về kinh tế chánh trị
Sở thủy: tên sông, nay là Tây Nhũ Hà, huyện Thương, Thiểm Tây; sông hồ của thời Sở cổ đại (xem thêm Phụ Đính: Sở Hương-Sở Thủy)
Quan sở: nơi làm việc hay chỗ ở của các quan chức
Nữ tường: bức tường thấp, có chỗ lòi lõm nhỏ trên tường
Ô đề: quạ kêu khóc, chỉ cầm khúc “Ô Đề Dẫn”, nói về tiếng khóc than của những tù đày xa vợ con
Miểu miểu: nước mênh mông. lượng nước khổng lồ
Đình đình: cao chót vót, từ xa
Sa điểu: chim nước trên bãi biển hay bờ cát
Lăng cốc: lăng là cái gò, cốc là hang hay chỗ trũng, ẩn dụ chỉ những thay đổi lớn trong thiên nhiên
Dặc Dưong: tên một huyện thành phồ Thượng Nhiêu, Giang Tây

Dịch nghĩa:

Đăng Dư Can Cổ Huyện Thành Viếng Cổ Thành Dư Can
Cô thành thượng dữ bạch vân tề Cái thành chơ vơ vậy mà có lầu cao gần tới mây trắng,
Vạn cổ hoang lương Sở thủy tê Từ ngàn năm qua, miền tây nước Sở hoang vu tiêu điều.
Quan xá dĩ không thu thảo lục Chỗ quan đường nay trống không bị cỏ thu xanh phủ lấp,
Nữ tường do tại dạ ô đề Tường thành xụp đổ là nơi đêm đêm nghe quạ than khóc.
Bình giang miểu miểu lai nhân viễn Sông phẳng lặng mênh mông, người đến từ xa,
Lạc nhật đình đình hướng khách đê Mặt trời chiều to lớn lặn dần trước mặt khách.
Sa điểu bất tri lăng cốc biến Chim biển không biết vạn vật vô thường luôn luôn biến đổi,
Triêu phi mộ khứ Dặc Dương khê Vẫn cứ sáng bay đến chiều rời suối Dặc Dương.

Bình luận:

Ta có thể thưởng tức bài thơ về mặt hình thức, bối cảnh lịch sử và ý nghĩa chính trị của nó. Đây là một bài thơ Đường luật 8 câu 7 chữ, luật bằng, vần bằng, đúng niêm vận, tiết tấu và đối xứng. Hai đối xứng rất nghiêm chỉnh về từ, thanh và ý:

Quan xá dĩ không thu thảo lục đối với:
Nữ tường do tại dạ ô đề

Bình giang miểu miểu lai nhân viễn đối với:
Lạc nhật đình đình hướng khách đê


Lưu Trường Khanh làm bài thơ này năm Thượng Nguyên thứ hai (761) của Đường Túc Tông, nhân lên thăm cổ thành của huyện Dư Can trên đường trở về kinh đô sau thời gian bị biếm ở Nam Ba, Phan Châu, Lĩnh Nam.

Địa danh Dư Can thời Đường cho đến ngày nay có tên là Dư Hãn trước đời Tần. Không thấy nơi nào nói cổ thành Dư Can được ai xây dựng và xây dựng lúc nào. Theo vị trí của cổ thành ở biên giới tây nước Việt của thời Xuân Thu (770-475TCN) và Chiến Quốc (475-221TCN), ở phía tây bắc sông An Nhơn (nay là sông Tín, Giang Tây), thượng nguồn sông An Nhơn thuộc Sở quốc, nên có thể đoán là thành Dư Can được người nước Việt xây để phòng thủ biên cương. Nhà Hán thiết lập huyện Dư Hãn, nhà Tùy đổi tên là huyện Dư Can. Nhà Đường dời huyện thành đến địa điểm khác. Theo một truyền thuyết, cổ thành bị dời không vì nhu cầu quân sự hay phát triển, mà vì tham nhũng quan liêu. Cổ thành đã hoang phế vào thời lúc Lưu đến viếng.

Lưu là một vị quan chính trực, nên bị dèm xiễm, vu khống, giáng chức và biểm đi Lĩnh Nam. Do đó ông thấy rõ sự bẩn thỉu trong chính trị và tham nhũng trong quan trường. Bây giờ đến viếng cổ thành, thấy vết tích chiến tranh, sự suy yếu của đất nước, tình hình khó khăn của người dân, làm cho nhà thơ lo lắng cho vận mệnh quốc gia và sinh sống của người dân Đường. Bài thơ trữ tình bao gồm những cảm xúc sâu sắc, cô đơn, bi thương, thâm trầm, tình cảm trong cảnh, hưng thịnh bên ngoài. Nhờ bài thơ này của Lưu Trường Khanh, cổ thành Dư Can được nổi danh. Sau này còn được gọi là Bạch Vân Thành và có xây Bạch Vân Đình.

Dịch thơ:

Viếng Cổ Thành Dư Can
Cổ thành trơ trọi lầu lêu nghêu,
Hoang vắng lâu nay cảnh tịch liêu.
Phòng trống nhà không cỏ phủ lấp,
Tường xiêu đổ nát quạ đêm kêu.
Giòng sông phẳng lặng chào mừng khách,
Chân bước theo sau nắng xế chiều.
Chim biển biết đâu đời biến đổi,
Sáng đi chiều đến suối đìu hiu.


Visiting an Old City by Liu Chang Qing


Standing alone, the old city has tall buildings reaching white clouds,
Abandoned for many years, the site looks depressed.
Empty offices and houses are covered by green grass,
Low wall with broken holes is where night crows lament.
The calm river with immense water flow welcome travelers from afar,
Walking toward the big slowly setting sun.
Sand birds are not aware of the impermanence of life,
In the morning, they return to and in the evening, fly away from the dark creek .
 
Phí Minh Tâm
***
Góp ý:

Hai chữ 余干=Dư Can trong tựa đề bài thơ là lối viết giản thể cho 餘干. Dư Can là (một) kinh đô của Sở Đế (楚帝) Lâm Sĩ Hoằng (林士弘) cuối thời Tùy, đầu thời Đường. Lịch sử có rất ít chi tiết về cuộc đời của Lâm Sĩ Hoằng, không ghi lại cả tên của nước mà ông ta xưng vương; ta chỉ biết ông được gọi là Sở Đế (楚帝) hay Nam Việt Vương (南越王). Ngoài Lưu Trường Khanh ra, tôi không biết có thi nhân nào nhắc đến Dư Can.

Không biết Thi Viện lấy tài liệu từ đâu về tên Sở Thủy hay chỉ cương ẩu vì không có tài liệu tiếng Hán hay Anh nói thế cả. Rất tiếc là Đạo Mò để lại cuốn Thủy Kinh Chú bên Mỹ nên không thể tìm xem Lịch Đạo Nguyên có nói gì về Dương Tử Giang chăng. Trích đăng ở dưới là bản chuyển âm Hán-Việt từ đoạn nói về tên sông Trường Giang trong 长江 - zn.Wikipedia

Các hà đoạn đích danh xưng Trường Giang tự giang nguyên chí Nghi Tân các đoạn hữu độc lập đích danh xưng。 Giang nguyên chí đương Khúc Hà Khẩu xưng Đà Đà Hà,lai nguyên vu Mông Cổ ngữ “thác khắc thác nãi ô lan mộc luân”, ý vi “hoãn mạn đích hồng giang”, tàng ngữ xưng Mã Khúc, tức “Hồng Hà”;dĩ hạ chí Ngọc Thụ Ba Đường hà khẩu vi Thông Thiên Hà,tàng ngữ xưng “trực khúc” (འབྲི་ཆུ),ý vi “mẫu li ngưu hà”;Ngọc Thụ chí Nghi Tân xưng Kim Sa Giang。Nghi Tân dĩ hạ thị hiệp nghĩa đích “Trường Giang”,can lưu giang đoạn các hữu biệt xưng,kỳ trung Nghi Tân chí Nghi Xương hựu xưng Xuyên Giang,chi giang chí Thành Lăng Ki hựu xưng Kinh Giang,An Huy tỉnh nội giang đoạn hựu xưng Hoàn Giang,Nam Kinh dĩ hạ chí Trường Giang khẩu đích giang đoạn hựu xưng Dương Tử Giang。

Từ An Huy đến biển Đông là đất của Sở ngày xưa và ta chỉ thấy hai tên Hoàn Giang và Dương Tử Giang.

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét