(Thịnh Đường)
Lý Kỳ 李頎 (690-751) người quận Triệu (nay thuộc huyện Triệu, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), về sau sống tại Dĩnh Dương (nay thuộc Đăng Phong, tỉnh Hà Nam).
Lời phi lộ
- Hán Võ Đế (漢武帝, 156 TCN - 87 TCN) được lịch sữ Trung quốc khen là anh hùng đánh đông dẹp bắc nhưng bị Lý Kỳ (trong bài 古從軍行 Cổ Tòng Quân Hành) chê là phí phạn xương máu của dân Hán.
Nguyên bản Dịch âm
古從軍行 Cổ Tòng Quân Hành
白日登山望烽火 Bạch nhật đăng sơn vọng phong hỏa
黃昏飲馬傍交河 Hoàng hôn ẩm mã bạng Giao Hà*
行人刁斗風沙暗 Hành nhân điêu đẩu phong sa ám
公主琵琶幽怨多 Công chúa tỳ bà** u oán đa.
野營萬里無城郭 Dã doanh vạn lý vô thành quách
雨雪紛紛連大漠 Vũ tuyết phân phân liên đại mạc.
胡雁哀鳴夜夜飛 Hồ nhạn ai minh dạ dạ phi.
胡兒眼淚雙雙落 Hồ nhi nhãn lệ song song lạc
聞道玉門猶被遮 Văn đạo Ngọc Môn*** do bị gìa
應將性命逐輕車 Ứng tương tính mệnh trục Khinh xa****
年年戰骨埋荒外 Niên niên chiến cốt mai hoang ngoại
空見葡萄入漢家 Không kiến bồ đào***** nhập Hán gia
Lý Kỳ
***
Chú giải
* Giao Hà:Thành cổ Giao Hà ở Tân Cương. Ý nói cho ngựa uống nước ở một con sông trong thành Giao Hà.
** Công chúa tỳ bà:Công chúa Tế Quân 細君, con của Giang Đô vương Lưu Kiến 江都王劉建, bị Hán Võ Đế 漢武帝 gả cho vua dân Ô Tôn 烏孫 ở Tây Vực. Khi đi đường vua sai gẩy đàn tỳ bà để giải khuây cho công chúa.
*** Ngọc môn:Hán Võ Đế 漢武帝 sai tướng quân Lý Quảng Lợi 李廣利 đi chinh phạt nước Đại Uyên 大宛 ở Tân Cương. Lý thấy chiến tranh bất lợi bèn dâng sớ xin bãi binh. Hán đế giận quá, sai sứ đến ngăn ở Ngọc Môn quan và hạ lệnh chém những binh sĩ nào dám lui vào trong cổng Ngọc Môn.
****Khinh xa:Năm 99 TCN, tướng quân Lý Quảng Lợi được lệnh đem 30.000 quân lên phía bắc, giao chiến với Hữu hiền vương của Hung Nô ở Kỳ Liên Sơn. Một tướng khác là Lý Lăng đem quân bộ cùng năm nghìn người thiện xạ qua phía Bắc Cư Duyên chừng hơn nghìn dặm. 5.000 quân của Lăng bị 80.000 quân Hung Nô bao vây. Trước tình thế tuyệt vọng, tên bắn đã hết, lính chết quá nửa, nhưng giết hại quân Hung Nô cũng hơn vạn người, sau đó Lý Lăng vừa rút lui vừa đánh tám ngày liền. Nhưng trên đường về thì lại bị quân Hung Nô chặn đứt lối đường. Quân Lăng thiếu ăn mà cứu binh không tới. Lý Lăng bất đắc dĩ phải đầu hàng Hung Nô. Hán Vũ Đế nghe tin, giết mẹ và vợ con Lăng. Quan thái sử Tư Mã Thiên sức can ngăn nên bị bỏ ngục và bị cung hình (thiến). Điển Khinh xa muốn mói tới Lý Lăng.
***** Bồ đào:Cây nho. Hán đế chinh phạt nước Đại Uyên, Tân Cương 4 năm. Sau đồng ý cho Đại Uyên được hằng năm triều cống ngựa và cây nho để trồng ở Trung Nguyên mới chịu bãi binh.
Dịch nghĩa
Hành Khúc Tòng Quân Thời Cổ
Sáng sớm thì lên núi nhìn đài lửa (báo hiệu có giặc) từ xa chiếu về,
Hoàng hôn thì cho ngựa uống nước bên thành Giao Hà.
Khách đi đường (chán chường) nghe tiếng mõ khua trong gió cát mịt mờ,
U oán thay tiếng đàn tỳ bà giải khuây cho nàng công chúa!
Doanh trại (chỉ là chỗ đóng quân) ở nơi hoang dã trải dài nghìn dặm, không có thành quách,
Mưa tuyết ùn ùn bao phủ khắp miền sa mạc rộng lớn.
Chim nhạn đất Hồ đêm đêm bay kêu bi thảm,
Người đất Hồ đôi mắt lệ chảy hai hàng.
Nghe nói ải Ngọc Môn vẫn còn chém lính không cho trở về,
Có lẽ phải bỏ tính mệnh mà đi theo Khinh xa (Lý Lăng).
Năm này qua năm khác, xương chiến sĩ vẫn chôn vùi ở ngoài nơi hoang dã,
Chỉ để thấy những cây nho đem về cho nhà Hán mà thôi./.
Dịch Thơ
Hành Khúc Tỏng Quân Thời Cổ
Sáng phải lên non coi lửa báo,
Chiều cho ngựa uống nước Giao Hà.
Người đi nghe mõ khua gió cát,
Công chúa hờn nghe tiếng tỳ bà.
Vạn dặm đồn binh không thành quách,
Sa mạc dầm dề mưa tuyết sa.
Nhạn Hồ đêm đêm kêu bi thảm,
Người Hồ giọt lệ chảy chan hòa.
Nghe ải Ngọc Môn còn chém lính,
Chi bằng đào ngũ theo Khinh xa.
Máu xương chiến sĩ nơi hoang dã:
Đổi lấy cây nho cống Hán gia./.
Lời bàn:
Bài thơ thất ngôn cổ phong mô tả cuộc hành quân của Hán Vũ Đế vào sâu trong nội địa của Hung nô. Thâm ý cùa Lý Kỳ là phát biểu ý phản chiến trong một bài Tòng quân hành (Tòng Quân Hành thường dùng để tác chiến; nay Lý Kỳ dùng để phản chiến).
Câu 1 & 2:
Tả công việc nhàm chán hằng ngày của binh sĩ Hán trong quân ngũ: sáng thì lên núi coi xem có lửa báo khẩn cấp từ các phong hỏa đài hay không. Chiểu thì dắt ngựa xuống chân thành Giao Hà cho uống nước.
Câu 3 & 4:
Tả việc làm vô nghĩa của Hán Vũ Đế: Gả Công chúa Tế Quân cho vua Hung nô, nuôi dưỡng tính hỗn xược của Hán để lấy cớ động binh sau này; chiếm đóng một vùng sa mạc mênh mông chỉ có gió và cát, khiến dân Hồ khóc lóc kêu than.
Câu 5, 6, 7 & 8:
Tả những khó khăn của quân Hán: đồn binh đóng rải rác dài ngàn dặm mà không có thành quách; rất khó phòng ngự, rất dễ bị đột kích. Tả những đau thương của dân bản xứ (nhạn Hồ kêu bi thương, dân Hồ khóc ròng).
Câu 9 & 10:
Lính Hán chán chiến tranh lui vể ải Ngọc Môn thì bị chém đầu; một số bèn đào ngũ chạy theo Lý Lăng…
Câu 11 & 12:
Hán Vũ Đế đổi xương máu của hàng vạn binh sĩ Hán lấy đồ triều cống của người Hồ gồm mấy con ngựa và mấy cây nho…
Con Cò
***
Hành Khúc Tòng Quân Thời Cổ
Sáng sớm lên non tầm lửa hiệu,
Chiều chăn ngựa uống nước Sông Giao.
Người đi khua mõ trong mù cát,
''Công chúa tỳ bà" thảm biết bao.
Vạn dậm đồn canh không lũy quách,
Mênh mông sa mạc tuyết rào rào.
Nhạn hồ điệu thảm đêm đêm hót
Nô Rợ mi buồn lệ lệ trào.
Nghe nói Ngọc Môn còn giết lính,
Theo Khinh xa giữ mạng buông đao.
Bao năm tử sĩ vùi hoang dã.
Đổi lấy cây nho cống Hán trào.
Mỹ Ngọc
Mar. 13/2022.
***
Tuyệt Lộ
Mưa tuyết rơi mịt mùng hoang mạc
Đêm nhạn bay xao xác gọi đàn
Chơ vơ lều trại bạt ngàn
Nỗi nhà đồng vọng tơ đàn rưng rưng
Sáng lên núi canh chừng hiệu lửa
Buổi chiều tà dong ngựa ra sông
Gió đưa vẳng tiếng chiêng cồng
Ải quan phong tỏa ngăn không đường về
Âu vận mệnh lâm bề nguy khổn
Vạn cốt khô gửi chốn sa trường
Bồ đào triều cống quân vương!
Yên Nhiên
***
Ngoài ra, tác giả còn dùng nhiều chữ lạ:
- Do là vẫn còn.
- Bị là bị như tiếng Việt.
- Già là chặn, ngăn, che lấp.
- Chữ Không ở câu chót, nhiều nghĩa lắm, nhưng đây là lần đầu BS thấy dùng không kiến để nói CHỈ thấy..
- Do là vẫn còn.
- Bị là bị như tiếng Việt.
- Già là chặn, ngăn, che lấp.
- Chữ Không ở câu chót, nhiều nghĩa lắm, nhưng đây là lần đầu BS thấy dùng không kiến để nói CHỈ thấy..
Hành Khúc Tòng Quân Thời Cổ
Sớm mai lên núi nhìn khói lửa,
Chiều tàn cho ngựa uống sông Giao,
Chiêng gõ trong mịt mù gió cát,
Tiếng đàn công chúa não lòng sao !
Đêm đêm Hồ nhạn kêu ai oán,
Đôi mắt Hồ nhi lệ ứa trào,
Mây hoang vạn dặm không thành quách,
Mưa tuyết tơi bời cát nối nhau,
Nghe nói Ngọc Quan còn bị chặn,
Nên đành liều mạng đuổi xe mau,
Năm năm xương lính vùi biên ải,
Chỉ đổi Bồ Đào chúa khát khao.
Bát Sách.
(Ngày 15/ 03/ 2022)
***
- Điêu đấu, một loại nồi cơm quân sự trong các triều đại Hán và Tấn
Bài Hành Quân Xưa
1-
Ngày rạng lên đồi canh đài lửa
Hoàng hôn dẫn ngựa uống sông xa
Người đi kẻng gõ mờ trong cát
Giải oán công nương gảy tỳ bà
Trại quân vạn dặm thành không đắp
Sa mạc tuyết bay phủ tới tấp
Kêu thảm nhạn Hồ mỗi mỗi đêm
Lính Hồ mắt lệ song song rớt
Nghe nói Ngọc Môn còn bị chặn
Liều đem tính mạng bám khinh xa
Bao năm xương lính vùi biên ải
Chỉ thấy nho tươi cống Hán gia!
2-
Ngày rạng lên đồi canh đài lửa
Chiều men sông dẫn ngựa uống no
Cát bay kẻng gõ mịt mờ
Công nương u uẩn, tiếng tơ tỳ bà
Trại dặm dài qua loa đồn trú
Tuyết giăng giăng che phủ cát vàng
Đêm đêm Hồ nhạn khóc than
Lính Hồ mắt lệ hai hàng rưng rưng
Ngọc môn quan nghe chừng cấm chặn
Đành nương xe chiến trận xông pha
Biên cương xương lính vùi qua
Nho tươi vật tiến Hán gia tiệc tùng!
Lộc Bắc
Nov2020***Nguyên bản: Phiên âm:
Nov2020
***
Nguyên bản: Phiên âm:古從軍行-李頎 Cổ Tòng Quân Hành – Lý Kỳ
白日登山望烽火 Bạch nhật đăng sơn vọng phong hỏa
黃昏飲馬傍交河 Hoàng hôn ẩm mã bạng Giao Hà
行人刁斗風沙暗 Hành nhân điêu đẩu phong sa ám
公主琵琶幽怨多 Công chúa tỳ bà u oán đa
野雲萬里無城郭* Dã vân vạn lý vô thành quách
雨雪紛紛連大漠 Vũ tuyết phân phân liên đại mạc
胡雁哀鳴夜夜飛 Hồ nhạn ai minh dạ dạ phi
胡兒眼淚雙雙落 Hồ nhi nhãn lệ song song lạc
聞道玉門猶被遮 Văn đạo Ngọc Môn do bị già
應將性命逐輕車 Ứng tương tính mệnh trục khinh xa
年年戰骨埋荒外 Niên niên chiến cốt mai hoang ngoại
空見葡萄入漢家 Không kiến bồ đào nhập Hán gia
Dị bản: *doanh營 thay vì vân雲trong Tương Hòa Ca Từ và sách của đời Tống Vương An Thạch. Ngoài ra 2 chữ đầu câu 2 đảo ngược thành hôn hoàng 昏黃.
Bài thơ thất ngôn cổ phong Cổ Tòng Quân Hành của Lý Kỳ được khắc bản trong các sách:
· Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp Quyển 133 Lý Kỳ 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
· Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
· Đường Âm - Nguyên - Dương Sĩ Hoằng 唐音-元-楊士弘
· Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp Quyển 19 Tương Hòa Ca Từ 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
· Đường Thi Tam Bách Thủ -Thanh- Hành Đường Thoái Sĩ 唐詩三百首-清 -蘅塘退士
· Đường Bách Gia Thi Tuyển - Tống - Vương An Thạch 唐百家詩選-宋-王安石
Chú thích:
- Phong hỏa: đốt lửa là một cách báo động cổ xưa
- Ẩm mã: cho ngựa ăn, uống nước biên giới
- Giao Hà: tên huyện/thành cổ nằm ở phía tây Thổ Phồn, Tân Cương ngày nay, có nơi cho là thành phố Thương Châu, tỉnh Hà Bắc; sông Giao
- Hành nhân: người chiến binh, người xuất chinh.
- Điêu đấu: nồi nấu ăn bằng đồng của quân binh xưa, dung lượng một đấu, ban ngày dùng để nấu cơm, buổi tối gõ như mõ để tuần tra
- Tỳ bà: nhạc cụ phát xuất từ Ba Tư, Ả Rập, được nhà Hán nhập vào Trung Hoa. Ban đầu đàn thân tròn hình nửa quả lê, có bốn dây, mười hai cột, ôm ngang trên ngực để tấu,và được gọi là "Tần Hán Tử". Từ thời Đường Tống đến nay đàn tỳ bà không ngừng cải tiến, thay đổi ôm ngang thành ôm dọc khi tấu. Đàn tỳ bà ngày nay có thể chơi nửa âm thanh, kỹ xảo phong phú, trở thành một nhạc cụ độc tấu quan trọng.
- Công chúa tỳ bà: Hán Vũ Đế cưởng ép Công chúa Tế Quân 細君, con của Giang Đô Vương Lưu Kiến 劉建 gả cho Côn Mạc 昆莫 chúa bộ tộc du mục Ô Tôn 乌孙 ở Tây Vực. Để công chúa bớt phiền muộn trên đường, Vũ Đế sai gẩy đàn tỳ bà để công chúa giải khuây.
- U oán: nỗi hận sầu chất chứa trong lòng
- Thành quách: thành chỉ tường nội thành, quách chỉ tường ngoại thành, nói chung thành phố
- Phân phân: lộn xộn, nhiều hình dạng diện mạo
- Đại mạc: khu vực sa mạc rộng lớn ở phía tây bắc của Trung Hoa
- Hồ nhạn: nhạn đến từ vùng đất Hồ phía bắc
- Hồ nhi: người Hồ, sử dụng như một cách miệt thị.
- Văn đạo: nghe nói
- Ngọc Môn: ải Ngọc Môn; điển tích Hán Vũ Đế 漢武帝 sai tướng Lý Quảng Lợi 李廣利 chinh phạt nước Đại Uyên 大宛 ở Tân Cương, chiếm thành Nhị Sư 贰师 để đoạt tuấn mã. Thấy chiến tranh bất lợi, Quảng Lợi dâng sớ xin bãi binh. Vũ Đế giận dữ, sai sứ đến ngăn ở Ngọc Môn quan và hạ lệnh chém những binh sĩ nào dám lui vào ải: “Quân hữu cảm nhập, trảm chi”.
- Khinh xa: tên binh chủng cổ xưa, lính điều khiển xe nhẹ để chiến đấu; điển tích nói về Lý Lăng vừa lui binh vừa chiến đấu
- Bồ đào: cây nho, một loại rượu nho thơm ngon, một loại tuấn mã Ả Rập. Hán đế chinh phạt nước Đại Uyên, Tân Cương trong 4 năm. Sau đó đồng ý cho Đại Uyên được hằng năm triều cống ngựa và cây nho để trồng ở Trung Nguyên mới chịu bãi binh.
Dịch nghĩa:
Cổ Tòng Quân Hành Khúc Quân Hành Xưa
Bạch nhật đăng sơn vọng phong hỏa Sáng sớm lên núi quan sát đài lửa báo hiệu,
Hoàng hôn ẩm mã bạng Giao Hà Chiều cho ngựa uống nước trên bờ sông Giao.
Hành nhân điêu đẩu phong sa ám Người chiến binh nghe tiếng điêu đấu trong gió cát mịt mờ,
Công chúa tỳ bà u oán đa Tiếng đàn tỳ bà của Công chúa nhà Hán tràn ngập nỗi oán hận.
Dã vân/doanh vạn lý vô thành quách Mây mù/doanh trại nơi hoang dã vạn dặm không thấy thành phố,
Vũ tuyết phân phân liên đại mạc Mưa tuyết ào ào bao phủ vùng sa mạc vô biên.
Hồ nhạn ai minh dạ dạ phi Đêm đêm chim nhạn đất Hồ bay và kêu thảm thiết,
Hồ nhi nhãn lệ song song lạc Làm binh lính Hồ nước mắt rơi hai hàng.
Văn đạo Ngọc Môn do bị già Nghe nói Ngọc Môn Quan còn chém lính, chặn đường về,
Ứng tương tính mệnh trục khinh xa Chỉ có thể đi theo chủ tướng bôn ba liều mạng.
Niên niên chiến cốt mai hoang ngoại Năm nào hài cốt chiến sĩ chết trận cũng được chôn vùi ngoài hoang dã,
Không kiến bồ đào nhập Hán gia Đổi lại chỉ thấy những cây nho Tây Vực đưa vào đất Hán.
Lời bàn:
Đây là một bài thơ cổ thể và cũng là một khúc ca từ nên không theo quy luật của thơ Đường luật. Theo ý nghĩa, có thể chia bài thơ làm 6 đoạn.
Đoạn 1 gồm câu 1 và 2: cảnh vật ban ngày ngoài biên cương. Nhiệm vụ hàng ngày của người lính biên thùy, ngoài chiến đấu khi bị xâm lăng. Giao Hà trong câu 2 có thể được là sông Giao hay là thành phố cổ. Cho ngựa uống nước bên bờ suối/sông hợp lý vì là nơi biên cương núi đồi. Thành phố nghe có vẻ miễn cưởng và mâu thuẫn với ý trong câu 5.
Đoạn 2 gồm câu 3 và 4: cảnh vật âm thanh ban đêm. Tình cảnh cô quạnh của lính biên thùy cũng buồn thảm như người phụ nữ bị đưa đi cống Hồ trong chế độ quân chủ chuyên chế.
Đoạn 3 gồm câu 5 và 6: cảnh biên thùy hoang dã, chỉ có mưa tuyết trên sa mạc vô biên. Câu 5, tùy bài, có hai ý khác nhau, mây và doanh trại. Cả hai đều có khắc bản trong sách xưa. Mây hợp tình lý hơn doanh trại. Mây có thể kéo dài vạn dặm, nhưng doanh trại thì đâu có nhiều và bỏ hoang phế như thế.
Đoạn 4 gồm câu 7 và 8: phía Hồ tinh thần binh sĩ không khá gì hơn, cũng bị cưởng bách và bi ai như binh sĩ Hán. Lý Kỳ cảm thông nỗi thống khổ của quân Hồ.
Đoạn 5 gồm câu 9 và 10: binh sĩ muốn trở về phải qua ải Ngọc Môn. Với lịnh của Vũ Đế là chém bất cứ ai vào cửa ải, người lính chỉ còn liều mạng chiến đấu vì không đường lui. Ở đây có nhiều người dịch không quan tâm đến điển tích “Quân hữu cảm nhập, trảm chi”, nên dịch là Ngọc Môn có còn bị ngăn chận không? Ngăn chận không phải vì bị quân Hồ bao vây, mà do lịnh bạo tàn của Vũ Đế.
Đoạn 6 gồm câu 11 và 12: Lý Kỳ mỉa mai Hán Vũ Đế chinh phạt Hồ trong 4 năm, đổ bao xương máu binh sĩ, dân chúng lầm than để cuối cùng, hàng năm, nhận mấy cây nho và vài con tuấn mã. Đúng là kẻ ác đức có quyền hành trong tay. Bài thơ viết vào khoảng sau năm 742, phải chăng Lý Kỳ đang dùng lịch sử để chỉ trích Đường Huyền Tông cũng hy sinh tánh mạng binh sĩ để nới rộng biên thùy (xâm lược nước láng giềng)? Chữ Cổ trong tựa bài thơ là để tránh bị kiểm duyệt, bị bắt tội khi quân.
Dịch Thơ:
Khúc Quân Hành Của Vũ Hán Đế
Sáng ngày lên núi xem đài lửa,
Chiều xuống ngựa dừng uống suối Giao.
Cát bụi mịt mù nghe tiếng đấu,
Tỳ bà ai oán đậm sầu đau.
Mây hoang vạn dặm không nhà phố,
Sa mạc không bờ mưa tuyết gào.
Hồ nhạn đêm đêm kêu thảm thiết,
Binh Hồ thổn thức dưới trăng sao.
Nghe đồn ải Ngọc “Ai qua, chém!”
Liều mạng sống còn chớ biết sao?
Cốt trắng chôn vùi nơi đất lạ.
Đổi cho tuấn mã với bồ đào.
An Old War-Song by Li Qi
Translation by Witter Bynner
Through the bright day up the mountain, we scan the sky for a war-torch;
At yellow dusk we water our horses in the boundary river;
And when the throb of watch-drums hangs in the sandy wind,
We hear the guitar of the Chinese Princess telling her endless woe....
Three thousand miles without a town, nothing but camps,
Till the heavy sky joins the wide desert in snow.
With their plaintive calls, barbarian wildgeese fly from night to night,
And children of the Tartars have many tears to shed;
But we hear that the Jade Pass is still under siege,
And soon we stake our lives upon our light war chariots.
Each year we bury in the desert bones unnumbered,
Yet we only watch for grape-vines coming into China.
A Poem for the Enlisted to an Old Melody by Li Qi
Translation by Betty Tseng
During the day we mountains climb to military beacon fires observe,
At dusk we lead the horses to the Border River for water.
Soldiers dread the sound of midnight bronze bells, for gloomier than dust storms they are,
Like the Han princess's lute play during her life in the Wusun Tribe, grievous and bitter.
In the wild under clouds that stretch on for miles, there is not a trace of a township,
Heavy draughts of snow fall like rain over the boundless desert.
Wild geese cry their way through overhead night after night,
Evoking sadness and bringing tears to even the barbarians.
They say that still shut off from traffic is the Pass of Jade,
Those sent out there can only soldier on and more battles brave.
Ever more remains are buried in the wilds year after year,
Vainly in exchange for Hun's submission to Han's Court of allegiance and grapes.
War Song by Li Qi
Translation by Xu Yuan Zhong
We climb the hill by day to watch for beacon fires
And water horses by riverside when day expires.
Wc strikc the gong in sand-darkened land where wind blows
And hear the pipa tell the Princess”secret woes1,
There no town for miles but tents in a row,
And the heavysky joins the wide desert in snow.
It’s the wild geese honking from night to night we hear
And Tartar soldiers we see shedding tear on tear.
T’is said we cannot go back through the Jade-Gate Pass,
We'd risk our lives to follow war-chariots, alas!
We bury the dead in the desert year on year
Only to bring back grapes from over the frontier.
1 The Princess refers to the beautiful Lady Wang Zhao-jun who was married, upon royal order, to the Khan of the Tartar tribe in 33 B.C.
An Old Marching Song by Li Qi
Translation by Innes Herdan
In the white dawn, climbing the hills to watch for beacon fires,
In the yellow dusk, watering the horses by Jiao river brink,
We men hear only the boom of watches and sand darkens the wind
Where a princess once sang to a guitar all her secret pain.
Our camp on the wild moors, no city for- countless miles,
Rain and snow, flake on flake, up to the immense desert.
Tartar geese fly over, night after night, mournfully honking,
And the Tartar soldiers' tears keep falling. falling.
We heard tell they are still holding Yumen Pass:
We must risk our lives and follow the light chariots.
Year on year the bones of the fallen lie beyond the wild border
And all this that barbarian grapes should be brought to the Han Court!
Phí Minh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét