(Thịnh Đường)
Tổ Vịnh 祖咏 (699-746) người Lạc Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).
Nguyên tác Dịch âm
江南旅情 Giang Nam lữ tình
楚山不可極 Sở sơn bất khả cực,
歸路但蕭條 Quy lộ đãn tiêu điều.
海色晴看雨 Hải sắc tình khán vũ,
海色晴看雨 Giang thanh dạ thính triều.
劍留南斗近 Kiếm lưu nam đẩu cận,
書寄北風遙 Thư ký bắc phong dao.
為報空潭橘 Vị báo Không Đàm quất,
無媒寄洛橋 Vô môi ký Lạc kiều.
Chú giải
Không Đàm: tên một xã của huyện Hu Dị nói trên
南斗 nam đẩu: Chòm sao nam đẩu, đối nghịch với chòm sao bắc đẩu 北斗.
劍留南斗近 Kiếm lưu nam đẩu cận: gươm giữ lại gần sao nam đẩu; câu này Thi Viện dịch là làm quan ở (xa tận) miền nam.
無媒寄洛橋 vô môi ký Lạc Kiều: không có người làm môi giới để ký thác tại cầu Lạc Dương: Thi Viện dịch là chưa có người mang giùm (quýt) vể nhà ở gần cầu Lạc Đương.
Dịch nghĩa
Tình khách ở Giang Nam
Núi non đất Sở trùng điệp,
Đường về quê cũ tiêu điều.
Biển quang đãng có thể nhìn thấy mưa ngoài xa,
Ban đêm nghe nước triều chảy xiết trên sông.
Làm quan ở miền nam,
Gửi thư về quê bắc xa vời.
Được báo cáo quất ở Không Đàm đã chín,
Chưa có người mang giùm về nhà ở gần cầu Lạc Dương.
(Tác giả quê ở Lạc Dương, làm bài này khi làm huyện uý Hu Dị thuộc tỉnh Giang Tô).
Dịch thơ
Tình xa ở Giang Nam
Núi Sở nhìn trùng điệp,
Đường về quê lao đao.
Biển tạnh mưa xa tít,
Đêm triều sông rì rào.
Làm quan gần Nam đẩu,
Thư về Bắc thế nào?
Quất Không Đàm đã chín,
Lạc Dương gởi làm sao?
Con Cò
***
Tình Khách Giang Nam
Núi Sở trải cùng đường,
Lối về quá thảm thương.
Biển quang mưa thấy rõ,
Sông vắng triều nghe cương.
Kiếm để gần nam đẩu,
Thư trao tận bắc phương.
Quít Không Đàm đã biết,
Không trạm gửi Lạc Dương.
Mỹ Ngọc
Feb. 1/2022.
***
Tâm Tư Xa Nhà Khi Ở Giang Nam.
Rặng non Sở chập chùng không dấu,
Lối về quê sao xấu tiêu điều,
Biển trong, xa thấy mưa nhiều,
Bên sông đêm vắng nghe triều nhẹ dâng.
Giữ thanh kiếm ở gần nam đẩu,
Gửi thư về gió thấu được đâu,
Quất Không Đàm chửa báo nhau,
Nhờ ai gửi tới bên cầu Lạc Dương.
Bát Sách.
(feb 03, 2022)
Tái bút: trong bài dịch, BS dùng 2 chữ gửi, giống như nguyên tác có 2 chữ ký.
***
Tình Khách Giang Nam
Núi Sở liền không dứt
Đường về xơ xác trông
Trời trong mưa biển rõ
Triều sóng, tiếng đêm sông
Lưu kiếm gần Nam đẩu
Thư trao tít Bắc phong
Không Đàm nghe quýt chín
Cầu Lạc chẳng ai mang!
Chập chùng rặng Sở không ngơi
Đường lên quê cũ xa vời buồn thiu
Trời quang mưa biển những chiều
Tiếng sông đêm chảy, thủy triều đoán nghe
Làm quan Nam đẩu gần kề
Bắc phong thơ gửi bộn bề trần ai
Không Đàm nghe quýt chín sai
Gửi về cầu Lạc, nhờ ai mang dùm!?
Lộc Bắc
***
Tình Lữ Thứ
Đường về cố lý nẻo mông lung
Núi thẳm non cao vẫn điệp trùng
Sắc biển chói lòa: mưa sắp đổ
Đêm nghe tiếng sóng: thủy triều dâng
Quê xa gió Bắc trông tin nhạn
Trấn thủ phương Nam việc kiếm cung
Quýt ngọt vào mùa đang trĩu chín
Không người phu trạm–gửi ai cùng?
Yên Nhiên
***
Nguyên tác: Phiên âm:
江南旅情-祖咏 Giang Nam Lữ Tình - Tổ Vịnh
楚山不可極 Sở sơn bất khả cực
歸路但蕭條1 Quy lộ đãn tiêu điều
海色晴看雨 Hải sắc tình khán (khan) vũ
海色晴看雨 Giang thanh dạ thính triều
劍留南斗近 Kiếm lưu Nam Đẩu cận
書寄北風遙2 Thư ký bắc phong dao (diêu)
為報空潭橘 Vị báo Không Đàm quất
無媒寄洛橋 Vô môi ký Lạc kiều
Dị bản:
Mộc bản của Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁 cho 2 dị bản:
1 khách tự 客自 thay vì lộ đãn 路但 2 tặng贈 thay vì ký寄
Mộc bản trong sách đời Nguyên, Tống, Minh…bên dưới không cho dị bản:
Đường Âm - Nguyên - Dương Sĩ Hoằng 唐音-元-楊士弘
Văn Uyển Anh Hoa - Tống - Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉
Cổ Kim Thi San - Minh - Lý Phàn Long 古今詩刪-明-李攀龍
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Ghi chú:
Giang Nam: khu vực phía nam hạ lưu sông Dương Tử. Ý nghĩa khác nhau tùy thời đại. Thời Hán, là phần đất phía nam của sông Dương Tử ở tỉnh Hồ Bắc và các tỉnh Hồ Nam và Giang Tây, và sau đó phía nam của các tỉnh Giang Tô, An Huy và Chiết Giang. Thời Nam Bắc Triều, Giang Nam là phần đất Nam Triều cai trị, nam sông Dương Tử. Thời Nam Đường, Giang Nam là khu vực Kiến Đô (thành phố Nam Kinh ngày nay).
Lữ tình: suy nghĩ và cảm xúc của những người sống xa quê hương
Sở sơn: núi đất Sở, đất nước Trung Hoa cổ đại Xem thêm phụ đính Sở Hương (trong bài 504 Nam Hồ - Ôn Đình Quân), và Sở Thủy (trong bài số 475 Kinh Phiếu Mẫu Mộ - Lưu Trường Khanh).
Hải sắc: quang cảnh trên biển, thường bị ảnh hưởng bởi màu sắc của bầu trời, đáy nước…
Kiếm lưu: bị lưu giữ lại làm việc quan; kiếm nói là võ quan
Nam Đẩu: 1) tên sao, nhóm sáu tinh tú ở phía nam sao Bắc Đẩu, có hình cái đấu do đó có tên gọi 《汉语大词典》: 南斗: 星名. 即斗宿, 有星六颗. 在北斗星以南, 形似斗, 故称. 《 hán ngữ đại từ điển 》: nam đẩu: tinh danh. tức đẩu tú, hữu tinh lục khỏa. tại bắc đẩu tinh dĩ nam, hình tự đẩu, cố xưng. 2) mượn ý chỉ khu vực phía nam. Người xưa có câu "Nam Đẩu tại Ngô".
Bắc phong: gió từ phương Bắc
Không Đàm: tên huyện Ngô Đàm; nghĩa thông thường là vực sâu trong suốt như trong bài thơ Quá Hương Tích Tự của Vương Duy: Bạc mộ không đàm khúc, An thiền chế độc long Hoàng hôn phủ xuống khuỷu đầm trong vắng, Tinh tấn hành thiền chế ngự rồng độc.
Môi: mối, nguyên nhân, nhân cái gì mà đến như môi giới
Lạc kiều: cầu Thiên Tân trên sông Lạc ở thành Lạc Dương
Dịch nghĩa:
Giang Nam Lữ Tình Tình Khách Giang Nam
Sở sơn bất khả cực Dãy núi đất Sở kéo dài không có điểm cuối,
Quy lộ đãn tiêu điều Đường trở về quê hương cô đơn buồn bã.
Hải sắc tình khán vũ Qua tia sáng rực rỡ của mặt trời ở biển, thấy mây nhiều màu sắc, biết là trời sẽ mưa,
Giang thanh dạ thính triều Đêm nghe tiếng sông chảy xiết, biết thủy triều lên.
Kiếm lưu Nam Đẩu cận Quan nghiệp (thư kiếm) của ta phiêu linh gần sao Nam Đẩu,
Thư ký bắc phong dao Thư tín từ quê hương xa xôi được ký gởi vào gió Bắc,
Vị báo Không Đàm quất Được thông báo là quýt ngon của Không Đàm đang chín,
Vô môi ký Lạc kiều Muốn gởi một ít về nhà, đáng tiếc không ai mang nó dùm đến cầu Lạc Dương.
Bài thơ Đường luật ngũ ngôn bát cú, tả cảnh đẹp Giang Nam, hoàn chỉnh về vận, niêm và đối xứng.
Vận điều, kiều, diêu, triều cuối câu 2, 4, 6 và 8. Niêm chặt chẽ giữa các câu 2, 3, 6 và 7 và các câu 1, 4, 5 và 8. Đối xứng về từ, thanh và ý giữa cặp câu 3 và 4, và cặp câu 6 và 7.
Hải sắc tình khan vũ, đối với
Giang thanh dạ thính triều.
Kiếm lưu Nam Đẩu cận, đối với
Thư ký Bắc Phong dao.
Dịch thơ:
Tình Quê
Nước non dài vô tận,
Đường về quê đìu hiu.
Ngày nhìn mây trời biển,
Đêm nghe tiếng thủy triều.
Sống Nam do sự nghiệp,
Dành Bắc lòng thương yêu.
Muốn gởi quà cho mẹ,
Người mang chẳng nhận nhiều.
Feelings of an Expatriate by Zu Yong
The fatherland extends without boundaries,
However, the road home is lonely and sad.
You can see rains in the ocean through the bright sun rays.
You can hear the water flow at night and know the high tide.
My official duty requires me to station in the South,
And news from home comes only through the North wind.
Informed that the Kong Dan tangerines are in season,
I would love to send some home, but no one would deliver to Luo Yang.
Phí Minh Tâm
***
Góp ý :
南斗=nam đẩu và 空潭=không đàm là cái ... chi chi?
Thi Viện chú thích rằng nam đẩu là "sao nam đẩu đối nghịch với sao bắc đẩu", và đó là cương ẩu. Nam đẩu là tên tắt của nam đẩu tinh, một nhóm 6 ngôi sao trong nhị thập bát tú. Chúng nằm trong chòm Sagittarius (Nhân Mã-人马), tạo thành hình một cái đấu, trông tựa như chòm sao Ursa Major (Đại hùng-大熊). Chỉ những người sống gần đường xích đạo mới thấy được chòm sao này và có thể rằng thi sĩ họ Tố biết đến tên nó chỉ qua nhị thập bát tú, vì ông ta từ chức sớm, về hưu ở Nhữ Phần (Phu Dương, An Huy bây giờ) và địa phận của Giang Nam (trong thơ văn) nằm trong vòng đỏ của hình dưới.
Người Tàu thời xưa tin Nam Đẩu tượng trưng cho thọ mạng thiên tử và người tu đạo Lão thờ Nam Đẩu tinh để mong sống lâu. Và người Hán xưa cũng có thành ngữ "nam đẩu tại Ngô" để chỉ hướng Nam vì đất Ngô ở Giang Nam ngày xưa không thuộc Hán. Dù sao chăng nữa nam đẩu không phải là "một" ngôi sao.
Người ni tìm không ra 空潭=không đàm như là một địa danh hay điển tích và không hiểu 空潭橘 là gì. 橘=quất là cây quít; người Tàu gọi trái quít là quất tử. Các trang chữ Hán trên mạng giải thích 潭橘 là quít ở 潭/Ngô Đàm (吴潭的 橘子=Ngô Đàm đích quất tử). Nhưng người ni cũng không tìm ra Ngô Đàm ở đâu!
Huỳnh Kim Giám
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét