Thứ Tư, 13 tháng 1, 2021

Biên Tập Cúc Đường Di Cảo Cảm Tác 編集菊塘遺稿感作 - Nguyễn Ức

 

編集菊塘遺稿感作 Biên tập Cúc Đường Di Cảo Cảm Tác 

陵柏陰陰鎖翠微, Lăng bách âm âm tỏa thúy vi,
數聲啼鳥送殘暉。 Sổ thanh đề điểu tống tàn huy.
鼎湖波泛龍逾遠, Đỉnh hồ ba phiếm long du viễn,
華表雲深鶴未歸。 Hoa biểu vân thâm hạc vị quy.
客路幾年嗟潦倒, Khách lộ kỷ niên ta lạo đão,
鈞天午夜夢依稀。 Quân thiên ngọ dạ mộng y hi.
倚欄無限傷心事, Ỷ lan vô hạn thương tâm sự,
目斷山城淚暗揮。 Mục đoạn sơn thành lệ ám huy. 
阮億                         Nguyễn Ức 
***
Chú Thích:

- Cúc Đường 菊塘: Có nghĩa là " Cúc bên bờ ao ". Cúc Đường Chủ Nhân 菊塘主人 là biệt hiệu của Tư Đồ Trần Quang Triều, người vừa là thượng cấp vừa là bạn thơ của Nguyễn Ức dưới đời vua Trần Minh Tông (1314-1329).
- Lăng Bách : Những cây bách bên lăng mộ.
- Thúy Vi : Núi có cây xanh bao phủ.
- Sổ 數 : là Hình dung Từ chỉ Một Vài; nếu là Động từ thì có nghĩa là Đếm. Còn đọc là SỐ 數 thì là Danh từ, chỉ Con Số hay Số Lượng.
- Tàn Huy 殘暉 : Ánh nắng của buổi chiều tàn.
- Đỉnh Hồ : Chiếc đỉnh bên hồ nước trước lăng mộ.
- Hoa Biểu : Những hoa văn được khắc chế trên cột và cổng của lăng mộ.
- Lạo Đão : Thất bại, lận đận, nổi chìm.
- Quân Thiên : là Giữa Trời. Ngọ Dạ : là Nửa đêm.
- Y Hi : là Mơ Màng, là Văng vẳng, là Chặp chờn... tuỳ theo ngữ cảnh.
- Mục Đoạn : Nhìn mút con mắt.
- Lệ Ám Huy 淚暗揮 : là Âm thầm gạt lệ.
Ta thấy 
chữ Huy 揮nầy có bộ Thủ 扌 nên có nghĩa là : Đưa tay lên ( để gạt lệ ). Còn chữ Huy 暉 trong từ Tàn Huy 殘暉 ở bên trên, có bộ Nhựt 日 nên có nghĩa là Ánh nắng ( của Mặt trời ). 

Dịch Nghĩa:
Cảm Tác Khi Biên Tập Cúc Đường Di Cảo 

Những cây bách quanh lăng thâm u che kín cả màu xanh của núi, vài tiếng chim lẻ loi như đưa tiễn ánh nắng tàn của buổi chiều tà. Các đợt sóng nhấp nhô khắc trên đỉnh ở bên hồ hình bóng của rồng càng xa tít, và trên các phù điêu khắc nổi những đám mây vần vũ chưa thấy bóng hạc trở về. Mấy năm trên con đường đất khách than cho thân nhiều lận đận, trằn trọc thâu canh trong giấc mộng chập chờn. Tựa lan can mà tâm sự trùng trùng không ngớt thương tâm, nhìn mút mắt về phía chân thành bên núi mà âm thầm gạt lệ. 
***
Diễn Nôm:

Quanh lăng tùng bách vẻ cô liêu,
Mấy tiếng chim côi bóng xế chiều.
Đĩnh khắc sóng vờn rồng vẫn vắng,
Phù điêu mây nổi hạc chưa về.
Mấy năm đất khách than chìm nổi,
Canh vắng tàn đêm mộng não nề.
Đứng tựa lan can thương cảm mãi,
Vời trông gạt lệ hận riêng tê.

Lục bát:

Quanh lăng tùng bách thâm u,
Chim kêu đơn lẻ chiều thu nắng tàn.
Đỉnh hồ rồng vắng sóng lan,
Phù điêu mây nổi hạc vàng về đâu.
Mấy năm đất khách thêm sầu,
Nửa đêm canh vắng mộng đâu mơ màng.
Lòng thương cảm, tựa lan can,
Mõi trông thành núi bàng hoàng lệ rơi! 

Đỗ Chiêu Đức 
***

Diễn Nôm:

Lăng mộ âm u, bách rậm rì,
Chim chiều mấy tiếng tiễn tà huy.
Đỉnh hồ sóng cuộn rồng càng vắng,
Hoa biểu mây mờ hạc mãi đi.
Đất khách tháng ngày lận đận bước,
Bên trời hồn mộng chập chờn mi.
Chuyện lòng man mác lan can tựa,
Núi thẳm trông vời gạt lệ bi.

Mailoc 
***
Biên Tập Cúc Đường Di Cảo 

Tùng bách xanh um cảnh tịch liêu 
Chim côi tiễn biệt xế nương chiều 
Nhấp nhô sóng lượn dường long đỉnh 
Uốn khúc phù điêu tựa hạc phiêu 
Lận đận mấy năm đi đất khách 
Chập chờn bán dạ lại tiêu điều 
Lan can đứng tựa buồn vô hạn 
Rặng núi trông vời lệ thấm nhiều 


Mai Xuân Thanh 

***
Cảm Tác Khi Biên Tập Di Cảo Cúc Đường 

Trên lăng, tán bách xanh rì tỏa 
Khắc khoải lời chim tiễn nắng tàn 
Sóng vỗ miên man, rồng mãi vắng 
Mây lan mờ mịt, hạc chưa sang 
Lạc loài đất lạ, bao năm tủi 
Khắc khoải canh sầu, một giấc hoang 
Đứng tựa lan can lòng nặng trĩu 
Vời trông núi thẳm lệ đôi hàng.... 

Phương Hà  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét