Thứ Ba, 13 tháng 10, 2020

Góc Việt Thi:Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Kỳ Tam


送老妾還村居        TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ 

無限東風暖襲人, Vô hạn đông phong noãn tập nhân,
醉中扶起老來身。 Túy trung phù khởi lão lai thân.
慇懃報道無他語, Ân cần báo đạo vô tha ngữ,
江館煙村共一春。 Giang quán yên thôn cộng nhất xuân.
阮秉謙                     Nguyễn Bỉnh Khiêm

* Chú Thích :
- TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ 送老妾還村居 là Đưa người thiếp già trở về nơi ở cũ trong thôn xóm.
- Vô Hạn 無限: là Rất nhiều, là Đầy rẫy cả.
- Đông Phong 東風 là Gió từ hướng đông thổi đến, tức là Gió xuân đó.
- Tập 襲 : là Đánh lén, đánh úp (như Tập Công); ở đây có nghĩa là Thâm nhiễm, là bao phủ quanh, nên NOÃN TẬP NHÂN 暖襲人 là Cái ấm áp ập đến quanh người.
- Phù 扶: là Nâng đỡ, nên PHù KHỞI 扶起 là Đỡ dậy.
- Báo Đạo 報道: là Báo đáp lại cái đạo lý giữa tướng công và tì thiếp.
- Giang Quán 江館 : QUÁN ở đây là TRÚ QUÁN 住館 là Nhà ở, nên GIANG QUÁN có nghĩa là Căn nhà nhỏ ở ven sông. 
- Yên Thôn 煙村: là Xóm khói, là Xóm trong sương khói, chỉ Xóm thôn vắng vẻ.

* Nghĩa Bài Thơ:
ĐƯA NGƯỜI THIẾP GIÀ VỀ THÔN

Làn gió xuân tràn ngập làm cho hơi ấm cũng ập đến quanh người. Trong cơn say, ta đỡ dậy tấm thân già nua của người tì thiếp. Rất ân vần để báo đáp cho trọn cái đạo làm người, chớ không nói năng gì khác nữa. Căn nhà nhỏ ven sông trong xóm thôn vắng lặng như cùng tràn ngập trong mùa xuân.

Đối với những người hầu thiếp ngày xưa khi về già, thường được chủ nhân (cũng là người đầu ấp tay gối trong biết bao năm, lắm khi tình nghĩa còn hơn là người hôn phối chính thức được cưới khi đã hiển đạt) ban cho chút đỉnh tiền bạc, khá lắm thì thêm được một người hầu để về quê dưỡng già đợi ngày theo ông theo bà về nơi chín suối. Cụ nguyễn Bỉnh Khiêm đã rất tình nghĩa và đúng đạo làm người, đích thân đưa người thiếp già về quê để an hưởng tuổi già cho phải đạo.

* Diễn Nôm:
TỐNG LÃO THIẾP HOÀN THÔN CƯ

Gió xuân ấm áp thổi quanh người,
Say đỡ thân già đến tận nơi.
Trọn đạo ân cần không cắng đắng,
Nhà bên sông vắng đón xuân tươi!

Lục bát:

Quanh người thổi ấm gió xuân,
Trong say đỡ dậy ân cần dìu nhau.
Ít lời trọn đạo trước sau,
Nhà ven sông vắng rạt rào gió xuân!

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


自述 (其一) TỰ THUẬT (kỳ nhất)

年方七十已休官, Niên phương thất thập dĩ hưu quan,
重憶幽居覓故山。 Trùng ức u cư mịch cố san.
津館日高眠未起, Tân quán nhựt cao miên vị khởi,
青雲爭似白雲閑。 Thanh vân tranh tự bạch vân nhàn.


自述 (其二) TỰ THUẬT (kỳ nhị)

得優遊可便優遊, Đắc ưu du khả tiện ưu du,
心逸神閒日日休。 Tâm dật thần nhàn nhựt nhựt hưu.
最愛五湖湖上客, Tối ái ngũ hồ hồ thượng khách,
清風明月一扁舟。 Thanh phong minh nguyệt nhất biên chu.
阮秉謙                     Nguyễn Bỉnh Khiêm

* Chú Thích :
- Niên Phương 年方 : Năm khoảng; ở đây chỉ Tuổi khoảng...
- Trùng Ức 重憶 : là Nhớ lại.
- Tân Quán 津館 : là Quán ven bờ, có nghĩa : Gian nhà nhỏ bên bến sông.
- Tranh Tự 爭似 : Giành nhau để được giống như là...
- Ưu Du 優遊 : là Ưu tiên du ngoạn, là Du ngoạn một cách thoải mái.
- Tâm Dật Thần Nhàn 心逸神閒 : DẬT 逸 là Buông thả, thoải mái. nên TÂM DẬT THẦN NHÀN là Tâm thần buông thả thoải mái nhàn nhã.
- Nhất Biên Chu 一扁舟 : là Một chiếc thuyền mỏng, chỉ Một chiếc thuyền con.

* Nghĩa Bài Thơ:
TỰ THUẬT 
(bài 1)
Tuổi khoảng 70 đã từ quan để về hưu, còn nhớ lại chỗ ở thanh u vắng vẻ ngày trước nên tìm về núi cũ. Bên bến sông trong quán nhỏ, mặt trời đã lên cao vẫn còn ngủ chưa dậy. Mây xanh như tranh đua sự nhàn nhã với mây trắng trên bầu trời. 

(bài 2)
Được vui chơi thảnh thơi thì hãy cứ vui chơi thảnh thơi. Trong lòng thoải mái thần trí nhàn nhã thì ngày ngày cứ nghỉ ngơi. Yêu nhất là cảnh của Ngũ Hồ và khách du trên Ngũ Hồ, cứ thả một lá thuyền con mà thưởng ngoạn trăng thanh gió mát !

Câu đầu của bài 2 "Đắc ưu du khả tiện ưu du 得優遊可便優遊,làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ trong Tăng Quảng Hiền Văn là:

遇飲酒時須飲酒, Ngộ ẩm tửu thời tu ẩm tửu,
得高歌處且高歌。 Đắc cao ca xứ thả cao ca !

Có nghĩa:
Gặp lúc uống rượu thì cứ vui chơi mà uống rượu;
Lúc cất cao giọng hát thì cứ hát cho thả giàn!

Còn hai câu sau nối tiếp theo ý của hai câu trên nữa là:

今朝有酒今朝醉, Kim triêu hữu tửu kim triêu túy,
明日愁來明日憂. Minh nhựt sầu lai minh nhựt ưu!

Có nghĩa:
Hôm nay có rượu thì hôm nay hãy uống cho say;
Ngày mai sầu đến thì ngày mai hãy lo toan!

Đã về hưu hưởng nhàn rồi thì phải sống cho thoải mái, xả láng, không lo nghĩ gì nữa cả!

* Diễn Nôm:

TỰ THUẬT
(bài 1)

Tuổi vừa bảy chục đã về hưu,
Núi cũ tìm về với cựu cư.
Tân quán nắng cao người vẫn ngủ,
Mây xanh mây trắng mãi du du!

Lục bát:

Tuổi vừa bảy chục từ quan,
Nhớ nơi ở cũ cố san tìm về.
Nắng cao nhà vắng ngủ mê,
Mây xanh mây trắng tranh về nhàn du.

(bài 2)

Được lúc thảnh thơi cứ thảnh thơi,
Tâm tình thoải mái ngày ngày vui.
Ngũ Hồ yêu nhất người du ngoạn,
Gió mát trăng thanh thuyền nhỏ bơi.

Lục bát:

Thảnh thơi thì cứ thảnh thơi,
Trong lòng nhàn nhã niềm vui ngày ngày.
Ngũ Hồ du khách nhất đời,
Trăng thanh gió mát thuyền chơi khắp miền.

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


春旦感作                 XUÂN ĐÁN CẢM TÁC

行年七十四年餘, Hành niên thất thập tứ niên dư,
喜得投閒訪舊居。 Hỉ đắc đầu nhàn phỏng cựu cư.
歲始旁觀新宇宙, Tuế thủy bàng quan tân vũ trụ,
家貧唯富舊詩書。 Gia bần duy phú cựu thi thư.
秀花野竹三春好, Tú hoa dã trúc tam xuân hảo,
淨月明窗一室虛。 Tịnh nguyệt minh song nhất thất hư.
誰是誰非休說著, Thùy thị thùy phi hưu thuyết trước
老狂自笑太庸疏。 Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ !
阮秉謙                     Nguyễn Bỉnh Khiêm

* Chú Thích :
- Đầu Nhàn 投閒 : Vấn thân vào việc hưởng nhàn, như ĐẦU QUÂN 投軍 là Gia nhập vào quân đội vậy. 
- Phỏng 訪 : là Thăm viếng. PHỎNG CỰU CƯ 訪舊居 là Thăm lại chỗ ở cũ.
- Tuế Thủy 歲始 : Tuổi bắt đầu, có nghĩa là Đầu năm.
- Tú Hoa Dã Trúc 秀花野竹 : Hoa đẹp trúc hoang (chỉ tre mọc phóng túng).
- Tịnh nguyệt Minh Song 淨月明窗 : Trăng thì trong, cửa song thì sáng.
- Lão Cuồng 老狂 : Không phải là Ông già điên, mà là Ông già ngông nghênh.
- Dung Sơ 庸疏 : DUNG là Dung tục là tầm thường; SƠ là Hời hợt không ý tứ. Nên DUNG SƠ là Hời hợt tầm thường.

* Nghĩa Bài Thơ :
CẢM TÁC NGÀY ĐẦU XUÂN
Tuổi đời đã bảy mươi tư tuổi có thừa rồi, vui vì được về thăm lại chỗ ở cũ khi đã hưởng nhàn. Đầu năm cứ đứng một bên mà xem vũ trụ đổi mới; nhà nghèo chỉ giàu ở số sách thi thơ đã cũ mèm. Ba tháng mùa xuân thì vui với hoa đẹp và những khóm tre dại; Một căn phòng trống với trăng trong cửa sáng. Mặc ai phải ai trái xin đừng nói đến nữa, ta chỉ tự cười mình là lão già ngông nghênh tầm thường hời hợt và vô tích sự mà thôi !

* Diễn Nôm :
XUÂN ĐÁN CẢM TÁC

Tuổi đà bảy chục lại thêm tư,
Mừng được nhàn thăm chốn cựu cư.
Năm mới vui còn xem vũ trụ,
Nhà nghèo giàu chỉ có thi thư.
Trúc hoang hoa đẹp ba xuân thắm,
Song sáng trăng thanh một thảo lư.
Phải trái ai người đừng nói đến,
Già ngông hời hợt tự cười trừ ! 

Lục bát:

Tuổi già đã bảy mươi tư,
Vui nhàn thăm chốn cựu cư năm nào.
Đầu năm vũ trụ đổi màu,
Nhà nghèo sách cũ làm giàu quanh năm.
Trúc hoang hoa đẹp ba xuân,
Trăng thanh cửa sáng một phòng trống không.
Thị phi ai đó khôn phân,
Tự cười hời hợt già ngông vụng về. 
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


秋聲                         THU THANH
蕭條秋夜滴寒更, Tiêu điều thu dạ trích hàn canh,
玉律回音暗土聲。 Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh.
但覺樹間鳴晰晰, Đản giác thọ gian minh tích tích,
忽驚月下響錚錚。 Hốt kinh nguyệt hạ hưởng tranh tranh.
初聞戍婦愁無寐, Sơ văn thú phụ sầu vô mỵ,
自觸寒螿惹不平。 Tự xúc hàn tương nhạ bất bình.
擬作穎川歐子賦, Nghỉ tác Dĩnh Xuyên Âu tử phú,
恐惶模仿被時輕。 Khủng hoàng mô phỏng bị thời khinh.
阮秉謙                     Nguyễn Bỉnh Khiêm

* Chú Thích :
- Tiêu Điều 蕭條 : là Xơ xác vắng lặng.
- Ngọc Luật Hồi Âm Ám Thổ Thanh 玉律回音暗土聲 : NGỌC là cái ống bằng ngọc, người xưa đốt tro của màng cây sậy bỏ vào bên trong, đến các khí tiết như Đông chí, Lập xuân v.v... thì chất tro trong ống luật được khí trời thổi bay lên, người ta dựa vào đó để đoán xem thời tiết; ÁM THỔ THANH là ngầm có tiếng thổ là đất, theo Thái Cực Đồ thì ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) ứng với tứ thời, kim ứng với mùa thu, mộc ứng với mùa xuân, thuỷ và thổ ứng với mùa đông, hoả ứng với mùa hè. Ở đây ý nói rằng tuy là đang trong mùa thu mà trong ống ngọc luật đã ngầm có tiếng thổ, tức là báo trước sắp tới mùa đông rét mướt.
- Tích Tích, Tranh Tranh 晰晰,錚錚 : Từ Tượng thanh, chỉ tiếng côn trùng kêu trong đêm thu.
- Thú Phụ 戍婦 : là Vợ của những người lính thú lưu đồn ở xa.
- Hàn Tương 寒螿 : Một loại ve sầu nhỏ, chỉ kêu khi mùa thu lạnh lẽo. 
- Nghỉ Tác 擬作 : Định nhái theo để làm... cái gì đó.
- Dĩnh Xuyên Âu Tử Phú 穎川歐子賦 : ÂU TỬ tức là Âu Dương Tu, người đất Dĩnh Xuyên, sống vào đời Tống ở Trung Quốc, là Tễ Tướng và là một danh sĩ có làm bài "Thu Thanh Phú 秋聲賦" (Phú Tiếng thu) rất nổi tiếng.

* Nghĩa Bài Thơ:
TIẾNG THU
Trong đêm thu tiêu điều vắng lặng chỉ nghe tiếng đồng hồ nhỏ giọt điểm canh lạnh lẽo; Trong ống ngọc luật lại ngầm vang tiếng thổ báo hiệu mùa đông rét mướt sắp tới. Lại nghe thấy trong khóm cây có tiếng kêu ri rỉ, và chợt giật mình khi nghe tiếng ra rả dưới trăng. Thoáng nghe tiếng người vợ của các anh lính thú buồn vì không ngủ được, lại xúc động tâm tình như những con ve sầu đang kêu vang như than cho nổi bất bình. (Trước cảnh tình nầy), ta định làm bài phú về tiếng thu như Âu Dương Tu của đất Dĩnh Xuyên, nhưng lại e rằng người đời bảo là ta bắt chước mà khinh rẻ ta chăng !?

* Diễn Nôm:
THU THANH

Đồng hồ nhỏ giọt đêm thu lạnh,
Ngọc luật âm vang tiếng thổ thanh.
Chợt thấy trong cây vang chích chắc,
Giật mình dưới nguyệt tiếng lanh canh.
Não nề thú phụ buồn khôn ngủ,
Xúc động ve sầu rỉ suốt canh.
Muốn học Dĩnh Xuyên làm phú vịnh,
Còn e bắt chước bị người khinh.

Lục bát:

Tiêu điều nhỏ giọt đêm thu,
Âm vang ngọc luật nghe như thổ hành.
Trong cây vẳng tiếng lanh canh,
Dưới trăng ra rả giật mình tiếng ve.
Trở trăn cô phụ buồn nghe,
Dế mèn ri rỉ như chia bất bình.
Muốn làm bài phú Thu Thanh,
Chỉnh e mô phỏng buồn tình lại thôi !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

除夕即事                TRỪ TỊCH TỨC SỰ
新歲才臨舊歲除, Tân tuế tài lâm cựu tuế trừ,
老來笑我太庸疏。 Lão lai tiếu ngã thái dung sơ.
乾坤不盡煙花景, Càn khôn bất tận yên hoa cảnh,
門館無私水竹居。 Môn quán vô tư thủy trúc cư.
兩度手層扶日轂, Lưỡng độ thủ tằng phù nhựt cốc,
一封書肯上公車。 Nhất phong thư khẳng thượng công xư(xa).
年年管得春光好, Niên niên quản đắc xuân quang hảo,
知是天心獨厚余。 Tri thị thiên tâm độc hậu dư.
阮秉謙                     Nguyễn Bỉnh Khiêm

* Chú Thích :
- Tài Lâm 才臨 : là Mới vừa đến.
- Dung Sơ 庸疏 :DUNG là Dung tục là tầm thường, SƠ là Thưa thớt, hời hợt. Nên DUNG SƠ là Hời hợt tầm thường, vô tích sự, không làm được gì cả.
- Càn Khôn 乾坤 : là hai quẻ tượng trưng cho Trời và Đất trong Bát quái.
- Yên Hoa Cảnh 煙花景 : Cảnh hoa nở rộ đẹp đẽ của mùa xuân.
- Thủy Trúc Cư 水竹居 : Nhà ở trên bến nước có tre trúc hữu tình.
- Nhựt Cốc 日轂 : là Mặt trời, ở đây chỉ nhà vua, nên PHÙ NHỰT CỐC 扶日轂 là Phò trợ nhà vua.
- Công Xa 公車 : là Xe công, chỉ Xe của vua đi.
- Quản Đắc 管得 : là Quản lý được, có nghĩa là Nắm bắt được, là Hưởng được.
- Độc Hậu Dư 獨厚余 : ĐỘC là Riêng lẻ, HẬU là Hậu đãi, DƯ là Ta; nên ĐỘC HẬU DƯ là Hậu đãi riêng với mình ta.

* Nghĩa bài Thơ:
Tức Sự đêm Giao Thừa

Năm mới vừa đến thì năm cũ cũng đi qua; cười ta già đầu rồi mà còn hời hợt tầm thường vô tích sự. Cảnh hoa đẹp của mùa xuân trong đất trời thì vô cùng tận, và nơi ở nhàn nhã trước cửa có sông nước trúc tre cũng không chỉ dành riêng cho ai; Cũng đã hai lần từng phò vua giúp nước, nhưng một phong thư (kể công) cũng không chịu trình lên xe vua. (Chỉ cần) mỗi năm ta đều hưởng được những mùa xuân đẹp đẽ, thì biết là lòng trời còn hậu đãi ưu ái đến ta lắm rồi !

Qủa là lòng của một lão thần trung nghĩa, không hám vinh hoa phú qúy; không màng danh lợi buộc ràng, chỉ muốn yên thân nhàn tản thưởng ngoạn sự đẹp đẽ ưu ái của đất trời, của tiết xuân với hoa thơm cỏ đẹp khi mỗi độ xuân về. 

* Diễn Nôm :
TRỪ TỊCH TỨC SỰ

Năm mới đến đi lại một năm,
Cười ta già ngố lại vô tâm.
Đất trời cảnh trí hoa xuân thắm,
Nhà cửa ven sông tre trúc râm.
Hai lượt phò vua luôn dốc sức,
Một phong thư tấu mãi trầm ngâm.
Năm năm cứ được vui xuân đến,
Là phúc riêng trời kẻ hảo tâm.

Lục bát:
Năm mới đến, năm cũ đi,
Cười ta ngớ ngẩn khác gì năm qua.
Đất trời xuân thắm bao la,
Bên sông tre trúc cửa nhà riêng ai.
Hai lần phò chúa ra tay,
Một phong thư lại ngại hoài chẳng dâng.
Năm năm vui hưởng sắc xuân,
Biết trời hậu đãi lão thần riêng ta.

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét