Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2020

Sương Nguyệt 霜月 - Lý Thương Ẩn


Nguyên tác           Dịch âm

霜月                     Sương Nguyệt

初聞征雁已無蟬 Sơ văn chinh nhạn dĩ vô thiền,
百尺樓高水接天 Bách xích lâu cao thuỷ tiếp thiên.
青女素娥俱耐冷 Thanh Nữ, Tố Nga câu nại lãnh,
月中霜裏鬥嬋娟 Nguyệt trung sương lý đấu thiền quyên.

Lý Thương Ẩn

***

Chú giải

- Bách Xích lâu: một ngôi lầu tại phía tây nam huyện thành Linh Thạch, cao hàng trăm thước. 

- Thanh Nữ: tức Thanh Tiêu Ngọc Nữ, nữ thần cai quản về sương tuyết. Điển "Hoài Nam tử" nói: tháng thứ ba của mùa thu, Thanh Nữ xuất hiện, bắt đầu giáng sương tuyết xuống trần.

- Tố Nga: tức Hằng Nga, từ thời Hán do kiêng tên Lưu Hằng của Hán Văn Đế nên gọi là Thường Nga. Hằng và Thường đồng nghĩa, luôn luôn, thường thường. Vì ánh trăng vốn màu trắng, nên gọi là Tố, sắc trắng của lụa trắng. 4 chữ thanh nữ, tố nga ở đây đều dùng để chỉ ánh trăng.

- Đấu thiền quyên: so sánh sắc đẹp với nhau. 

Dịch nghĩa

Mới thấy nhạn bay về, ve đã hết kêu rồi
Trên lầu cao trăm thước, nhìn thấy nước bao la nối với chân trời
Ánh trăng trắng ngà không sợ lạnh
Sương mù và ánh trăng thi nhan sắc với nhau 

Dịch thơ

Trăng Sương

Ve vừa thấy nhạn đã im hơi
Trăm thước lầu cao nước nối trời
Thanh-nữ Tố-nga tài chịu lạnh
Ánh trăng sương sớm đấu xinh tươi

Con Cò

- Câu đầu: Con ve vừa im hơi (mua hè vừa hết), con nhạn đã bay về (mùa thu đã ập tới). Dùng súc vật để tả thời tiết đổi mùa. Rất tượng hình!
- Câu hai: Đứng trên lầu cao chỉ thấy nước bao la nối với chân trời…. Đây là bối cảnh của cuộc thi nhan sắc: giữa thiên nhiên bao la, vắng vẻ; nhìn từ trên cao chỉ thấy nước mênh mông tới tận chân trời. 
- Hai câu chót: Trong đêm thu lạnh lẽo, chị Hằng (khi xưa là Tiên bị Thượng đế lưu đày) thi nhan sắc (đấu thiền quyên) với sương mù.
***

Nhạn về ve tắt tiếng ca
Lầu cao nước biếc.. bao la bầu trời
Tố nga thanh nữ lạnh người..
Dưới trăng phô nét xinh tươi.. mượt mà!

Đỗ Tước
***
Trăng Sương

Ve ngưng, nhạn thoáng tiếng kêu rời
Trăm thước lầu cao nước tiếp trời
Ngọc nữ, Hằng Nga cùng chịu lạnh
Dưới trăng đua sắc với nhau chơi!

Lộc Bắc
***
Trăng Sương

Nhạn về ve bặt tiếng ca vang 
Trăm thước lầu cao nước lộng vàng 
Tiên Nữ, Hằng Nga đâu sợ lạnh
Dưới trăng thi sắc đẹp huy hoàng 

Lạc Thủy Đỗ Quý Bái
***
Sương Nguyệt

Sơ văn chinh nhạn dĩ vô thiền,
Bách xích lâu cao thủy tiếp thiên,
Thanh Nữ, Tố Nga câu nại lãnh,
Nguyệt trung sương lý đấu thiền quyên.

Nghĩa chữ: 

- Thiền, ở câu đầu, viết với bộ trùng, là con ve sầu, chữ Thiền ở câu cuối, viết với bộ nữ, là xinh đẹp, mình hay đọc là thuyền, như trai anh hùng, gái thuyền quyên, là cô gái có nhan sắc xinh đẹp.
- Thanh Nữ, Tố Nga: các anh Bảo, Giám đã giảng rồi.
- Câu: đều, cùng..
- Nại: nhịn, chịu, như nhẫn nại.
- Lý: lý lẽ, vải lót bên trong áo, ở bên trong. Nguyệt trung là giữa trăng, sương lý là trong sương, rất khó dịch ra tiếng Việt.

Nghĩa bài thơ:

Mới nghe nhạn từ xa về, là không còn ve sầu nữa.
Lầu cao trăm thước, nhìn xa, thấy nước tiếp với trời,
Hai người đẹp, Thanh Nữ và Tố Nga đều chịu lạnh cả,
Trăng và sương cùng đua tranh vẻ đẹp.

Bài thơ có tựa đề là Sương Nguyệt, nhưng đọc phớt qua là ta đã cảm thấy ý thu, tình thu, và cảnh thu trong đó: Tiếng ve sầu không còn nữa, nhạn đã bay về, trăng nước mênh mông, sương thấp thoáng, trời se lạnh... Tác giả một mình giữa trời thu bao la, quạnh vắng, làm rõ thêm nỗi cô đơn.

Bản dịch:

Vừa nghe nhạn tới, hết ve sầu,
Trăm thước lầu cao, nước tới đâu?
Thành Nữ, Tố Nga đều se lạnh,
Sương mù, trăng tỏ sánh cùng nhau.

Bát Sách.
***
Nguyên Tác: Phiên Âm:

霜月 - 李商隱 Sương Nguyệt - Lý Thương Ẩn

初聞徵雁已無蟬 Sơ văn chinh nhạn dĩ vô thiền
百尺樓台水接天* Bách xích lâu đài thủy tiếp thiên
青女素娥俱耐冷 Thanh nữ Tố nga câu nại lãnh
月中霜裏鬬嬋娟 Nguyệt trung sương lý đấu thiền quyên.

Ghi Chú:

Bách xích lâu: một ngôi lầu cao tại phía tây nam huyện thành Linh Thạch.
Thanh Nữ: là nữ thần cai quản về sương tuyết, Thanh Tiêu Ngọc Nữ. Sách Thiên Văn Huấn của Hoài Nam Tử nói: chí thu tam nguyệt, thanh nữ nãi xuất, dĩ hàng sương tuyết (tháng thứ ba của mùa thu, Thanh Nữ xuất hiện, bắt đầu giáng sương tuyết xuống trần).

Tố Nga: là nữ thần giữ mặt trăng, Hằng Nga. Do tỵ húy tên của Hán Văn Đế là Lưu Hằng, sau đời Hán tránh chữ Hằng nên gọi là Thường Nga. Hằng và Thường đồng nghĩa, luôn luôn, thường thường. Ánh trăng vốn màu trắng, nên còn gọi là Tố, sắc trắng của lụa. Tố nga còn là danh từ chung chỉ người con gái đẹp, trắng trẻo, có phẩm hạnh thanh khiết, có nhan sắc mộc mạc…

Nguyệt trung: trong (dưới) ánh trăng, một nghĩa khác là cung điện Hằng Nga.
Sương lý: áo lót (xiêm y) của Thanh Nữ
Đấu thiền quyên: thi đua nhau về cái đẹp 

Dịch Nghĩa: 

Sương và Trăng

Trời đã vào thu, nhạn đi xa về, ve sầu ngưng gọi hè,
Trên lầu cao trăm thước, sông chảy tận/từ chân trời.
Thanh nữ và Tố nga đều cùng chịu được lạnh,
Dưới ánh trăng, sương (Thanh Nữ) khoe áo quần đẹp.

Dịch Thơ: 

Trăng Sương

Nhạn mới xa về ve lặng hơi
Lâu đài trăm thước nước liền trời
Tố Nga Thanh Nữ biết chi lạnh
Trăng sáng áo sương đẹp tuyệt vời.


Nhạn về ve đã lặng hơi,
Lầu cao trăm thước sông rơi từ trời.
Cùng nhau chịu lạnh không lời,
Sương trăng đua sắc cho đời thăng hoa.

Moon and Fog by Li Shang Yin

When we hear the returning swallow, the cicada stops crying
On the hundred feet tower, (river) water touches the sky
Qing Nu and Bang E both can take the cold
Moon and fog compete their beauty.

Phí Minh Tâm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét