Thứ Tư, 9 tháng 2, 2022

Góc Việt Thi: Những Bài Thơ Xuân


1. Bài thơ NGUYÊN NHẬT của Lê Cảnh Tuân:

元日                 NGUYÊN NHẬT

旅館客仍在, Lữ quán khách nhưng tại,
去年春復來。 Khứ niên xuân phục lai.
歸期何日是? Quy kỳ hà nhật thị?
老盡故園梅。 Lão tận cố viên mai!
黎景詢            Lê Cảnh Tuân

* Chú thích :
- Nguyên Nhật : là Ngày đầu, ta phải hiểu là Ngày ĐầuCủa Một Năm, như chữ Nguyên Đán.
- Nhưng : là Vẫn, Vẫn Cứ...
- Phục : là Lại, là Trở lại.
- Quy Kỳ : Cái kỳ hạn trở về, là Ngày Về.
- Lão Tận : là Già đến tận cùng, là Già khú,già chát, già khằng !

* Nghĩa Bài Thơ:

Người khách tha hương vẫn còn ở nơi quán trọ nầy, nhưng mùa xuân của năm rồi, năm nay lại trở lại. Biết ngày nào mới là ngày về đây ? Chắc cành mai già ở quê nhà đã già cỗi hết rồi!
Não nùng thay tâm trạng của người lìa quê xa xứ trong những ngày xuân đến Tết về. Cội mai già còn cằn cỗi huống hồ chi là các đấng sanh thành chắc cũng không tránh khỏi buồn thương sầu não mà càng héo tàn lụm cụm!

* Diễn Nôm:

Mùng Một Tết

Khách còn nơi quán trọ,
Xuân năm trước lại sang.
Biết ngày nao trở lại ?
Cội mai đã cỗi tàn !

Lục bát:

Trọ nơi lữ quán khách còn
Mùa xuân năm trước lon ton lại về
Ngày nao mới được hồi quê ?
Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu!
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

2. Bài thơ XUÂN TỪ của Ngô Chi Lan:

春詞                         XUÂN TỪ 

初晴薰人天似醉, Sơ tình huân nhân thiên tự túy,
艷陽樓臺浮暖氣。 Diễm dương lâu đài phù noãn khí.
隔簾柳絮度鶯梭, Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa,
繞檻花鬚穿蝶翅。 Nhiễu hạm hoa tu xuyên điệp xí.
階前紅線日添長, Giai tiền hồng tuyến nhựt thiêm trường.
粉汗微微沁綠裳。 Phấn hạn vi vi tẩm lục thường.
小子不知春思苦, Tiểu tử bất tri xuân tứ khổ,
傾身含笑過牙牀。 Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.
吳芝蘭                     Ngô Chi Lan

* Chú Thích:
- Sơ Tình 初晴 : là nắng mới, chỉ nắng của mùa xuân sau ba tháng mùa đông lạnh lẽo.
- Huân Nhân 薰人 : là Hanh người, là Làm cho con người cảm thấy ấm áp.
- Diễm Dương 艷陽 : là Ánh nắng đẹp, trời nắng rất đẹp đẽ.
- Oanh Thoa 鶯梭 : Các con chim oanh len lỏi trong cành liễu như con thoi.
- Nhiễu Hạm 繞檻 : là Lòng vòng ở dưới mái hiên.
- Giai Tiền 階前 : là Trước thềm.
- Phấn Hạn 粉汗...câu 6 : Mồ hôi rịn ra phấn dồi thấm nhè nhẹ vào tà áo xanh.

* Nghĩa Bài Thơ:

Thơ Mùa Xuân

- Nắng mới ấm áp hanh người làm cho trời cũng tựa như đang say,
- Lâu đài chìm trong nắng đẹp cũng chan hòa vẽ ấm áp.
- Trên cành tơ liễu cách rèm bên ngoài chim oanh len lỏi trong các cành liễu tựa con thoi.
- Bay vòng dưới mái hiên con bướm bị các tua hoa xuyên qua cánh.
- Những vệt nắng như những sợi chỉ hồng trước thềm làm cho ngày như dài thêm ra.
- Mồ hôi rịn ra phấn dồi thấm nhè nhẹ vào tà áo xanh.
- Chàng tuổi trẻ kia không biết được sự nhớ nhung trong mùa xuân là khổ tâm như thế nào (mùa xuân là mùa đoàn tụ mà phải xa nhau nhớ nhau), nên mới...
- Nghiêng mình cười mĩm mà đi qua giường ngà (như chẳng có việc gì xảy ra !).
Nằm trên giường ngà để nhớ người tình xa trong mùa xuân ấm áp tràn đầy nhựa sống thì còn gì khổ tâm và ray rức hơn nữa. Tâm sự và nỗi lòng nầy làm cho ta nhớ đến nàng thiếu phụ có chồng là quan to, nên mỗi buổi sáng mùa xuân, lúc đôi lứa đang mặn nồng và ấp yêu nhất, thì lại phải dậy sớm để đi chầu vua, bỏ mặc gối chăn thơm phức và nàng vợ trẻ. Bài thơ "Vị Hữu" của Lý Thương Ẩn như sau :

Vị hữu vân bình vô hạn kiều, 爲有雲屏無限嬌,
Phụng thành hàn tận phạ xuân tiêu. 鳳城寒盡怕春宵.
Vô đoan giá đắc kim qui tế, 無端嫁得金亀婿,
Cô phụ hương khâm sự tảo triều . 辜負香衾事早朝 .

Có nghĩa:

Vì có bình phong đẹp lắm mầu
Kinh thành hết lạnh, sợ canh thâu
Khéo xui lấy được ngài quan lớn
Phụ bạc gối chăn, sớm phải chầu!

Lục Bát:

Bình phong đẹp đẽ yêu kiều
Phụng thành đông hết, xuân tiêu đêm dài
Vô duyên lấy phải quan ngài
Gối chăn bỏ hết mặc ai,… đi chầu!

* Diễn Nôm:

THƠ XUÂN

Nắng mới hanh người trời túy lúy,
Lâu đài nắng đẹp ấm xuân khí.
Ngoài rèm tơ liễu rộn oanh ca,
Bướm lượn vờn hoa tua rách xí.
Vệt nắng trước thềm ngày chẳng nhanh,
Mồ hôi hòa phấn thấm bào xanh.
Trẻ con nào biết xuân nhung nhớ,
Cười mỉm nghiêng mình lại dạo quanh!

Lục bát:

Hanh người nắng mới trời say,
Nắng lên ấm đẹp lâu đài thêm xuân.
Ngoài rèm oanh hót liễu xanh,
Xuyên hoa cánh bướm lượn quanh hiên nhà.
Trước thềm vệt nắng dài ra,
Mồ hôi rịn phấn thấm tà áo xanh.
Trẻ trung nào biết xuân tình,
Thản nhiên cười mĩm nghiêng mình lướt qua!
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

3. Bài thơ SƠ XUÂN của THÁI THUẬN:

初春                         SƠ XUÂN
三冬過了一春歸, Tam đông qúa liễu nhất xuân qui,
乍暖東風放放吹。 Sạ noãn đông phong phóng phóng xuy.
冰雪凍痕鋪水面, Băng tuyết đống ngân phô thủy diện,
乾坤生意上林枝。 Càn khôn sanh ý thượng lâm chi.
柳還舊綠鶯猶靜, Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,
桃試新紅蝶未知。 Đào thí tân hồng điệp vị tri.
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi !
蔡順                         Thái Thuận

* Chú thích:
SƠ XUÂN: Mới bắt đầu mùa xuân, là Chớm Xuân, là Đầu Xuân.
TAM ĐÔNG : Chỉ 3 tháng của mùa đông.
SẠ NOÃN: SẠ 乍 là Bất chợt, Bỗng nhiên, Mới vừa. SẠ NOÃN là Chợt ấm lên
NGÂN 痕: là Vết sẹo, là Dấu vết.
SANH Ý 生意: là Cái ý sống, cái ý sinh tồn. Sau dùng rộng ra chỉ Sự làm ăn buôn bán của con người để kiếm sống.
THẢO TÂM : Nỗi lòng của tấc cỏ.

* Nghĩa Bài Thơ:

CHỚM XUÂN

Mùa xuân vừa mới trở về sau ba tháng của mùa đông đã qua đi rồi. Trời chợt ấm lại nên gió xuân từ hướng đông đã hay hẩy thổi đến. Dấu ấn của băng tuyết còn sót lại bày ra trên mặt nước, và ý sống của đất trời đã nẩy mầm trên các cành ngọn của cây rừng. Liễu thì vẫn xanh tốt như xưa, và đào thì đã trổ màu hồng mới nhưng bướm vẫn còn chưa hay biết. Trời chiều quay đầu trông ngóng về phía quê xa, tấc lòng của người con du tử không tránh khỏi nỗi xót xa !
Bài thơ Sơ Xuân của Thái Thuận đọc lên nghe như có âm vang hơi hám của thuở Thịnh Đường, ngay từ câu đầu tiên
三冬過了一春歸 Tam đông qúa liễu nhất xuân quy.
Từ " Tam đông " làm ta nhớ đến từ " Tam xuân " trong 2 câu trong bài " Du Tử Ngâm " của Mạnh Giao đời Đường là :
誰言寸草心, Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
報得三春暉. Báo đắc Tam Xuân huy.
mà cụ Nguyễn Du đã thoát dịch rất hay là :
" Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân "
Ta thấy từ " Thảo Tâm Du Tử " : Tấc lòng của người con du tử, lại được Thái Thuận sử dụng ở câu cuối:
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi !
(Tấm lòng như tấc cỏ của người con du tử không tránh khỏi buồn thương ray rức )...
và nhất là câu:
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng
lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là:
日暮鄉關何處是? Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
... mà Tản Đà đã dịch rất hay là :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !

* Nghĩa Bài Thơ:

CHỚM XUÂN

Ba tháng đông qua xuân lại thay,
Gió xuân hây hẩy ấm lòng ai.
Dấu tàn băng tuyết in dòng nước,
Chồi mới đất trời biếc ngọn cây.
Liễu đã xanh om oanh vắng tiếng,
Đào đà đỏ nụ bướm chưa hay.
Quay nhìn quê cũ khi chiều xuống,
Du tử bồi hồi mắt lệ cay !

Lục bát:

Đông qua nay lại chớm xuân,
Khí trời chợt ấm gió đông lào xào.
Nước trôi băng tuyết dạo nào,
Rừng cây nẩy lộc chồi cao xanh cành.
Liễu buồn oanh hãy vắng tanh,
Đào buồn vắng bướm cành xanh ửng hồng.
Trời chiều quê cũ vời trông,
Bồi hồi du tử chạnh lòng xót xa !
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

4. Bài thơ XUÂN HIỂU của Thái Thuận:

春曉                 XUÂN HIỂU

忽聞何處鳥, Hốt văn hà xứ điểu,
客枕夢回新。 Khách chẩm mộng hồi tân.
窗外雲如幕, Song ngoại vân như mạc,
空中雨似塵。 Không trung vũ tự trần.
花容猶隱露, Hoa dung do ẩn lộ,
草色欲圍人。 Thảo sắc dục vi nhân.
遊子吟風月, Du tử ngâm phong nguyệt,
誰能報得春。 Thùy năng báo đắc xuân.
蔡順                 Thái Thuận

* Nghĩa Bài Thơ:
Buổi Sáng Mùa Xuân

Chợt nghe tiếng chim hót xa xa như ở tận nơi nào, bên gối khách vừa tỉnh dậy sau một giấc mộng dài. Ngoài song mây giăng giăng như màn che, trên bầu trời mưa lưa thưa lất phất như bụi. Những đóa hoa nở như còn đọng lại những hạt sương đêm và màu cỏ xanh mơn mởn như vây lấy con người. Người du tử ngâm câu hoa nguyệt, nhưng nào ai đã báo đáp được nàng xuân đâu !

* Diễn Nôm:
SÁNG XUÂN

Chim nơi đâu chợt hót,
Khách bỗng tỉnh mộng dài.
Ngoài song mây mờ phủ,
Bên trời mưa bụi bay.
Hoa nở sương còn đọng,
Cỏ xanh biếc quanh ai,
Du tử ngâm thơ thẩn,
Ai báo được xuân nay?

Lục bát:

Chợt nghe chim hót đâu đây,
Khách choàng tỉnh mộng mới say giấc nồng.
Mây che rèm phủ ngoài song,
Phất phơ mưa bụi trên không mơ hồ.
Lá hoa còn ngậm sương mơ,
Biếc xanh đồng cỏ ơ hờ quanh ta.
Ngâm câu tuyết nguyệt phong hoa,
Nào ai báo được xuân qua bao lần?!
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

Kính mời đọc lại bài ...

春曉                 Xuân Hiểu

孟浩然             Mạnh Hạo Nhiên
春眠不覺曉, Xuân miên bất giác hiểu,
處處聞啼鳥。 Xứ xứ văn đề điểu,
夜來風雨聲, Dạ lai phong vũ thanh,
花落知多少。 Hoa lạc tri đa thiểu?

* Diễn Nôm: :
SÁNG XUÂN

Đêm Xuân ngủ quên sáng,
Chim hót khắp nơi nơi !
Đêm qua dường mưa gió,
Bao nả cánh hoa rơi ?!
Lục bát :
Đêm xuân quên sáng ngủ vùi,
Chợt nghe chim hót nơi nơi rộn ràng
Đêm qua mưa gió mơ màng,
Bao nhiêu hoa rụng bàng hoàng sáng xuân.
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

5. Bài thơ XUÂN DẠ ĐỘC THƯ của Cao Bá Quát:

春夜讀書                  Xuân Dạ Độc Thư

今人不見古時春, Kim nhân bất kiến cổ thời xuân
惆悵今春對古人。 Trù trướng kim xuân đối cổ nhân.
世事幾何今不古, Thế sự kỷ hà kim bất cổ,
眼前莫認幻為真。 Nhỡn tiền mạc nhận huyễn vi chân
幾多名利終朝雨, Kỷ đa danh lợi chung triêu vũ,
無數英雄一聚塵。 Vô số anh hùng nhất tụ trần.
自笑俗拘拋未得, Tự tiếu tục câu phao vị đắc,
邇來攜卷太諄諄。 Nhĩ lai huề quyển thái truân truân.
高伯适                    Cao Bá Quát

2. Chú Thích:
* Độc Thư : là Xem Sách mà cũng có nghĩa là Học Hành nữa, vì ngày xưa Xem Sách tức là đang Học Tập đó.
* Trù Trướng : là Do dự, Ngập ngừng, là Ngơ Ngẩn.
* Huyễn Vi Chân : là Lấy ảo làm thực, lấy huyễn hoặc làm thực tế.
* Triêu Vũ : là Mưa buổi sáng.
* Tụ Trần : làBụi phủ, Bụi mờ.
* Tục Câu : Tục ở đây có nghĩa là Thói Thường, nên Tục Câu có nghĩa là những câu nệ tầm thường, những thói xấu tầm thường khó bỏ. PHAO VI ĐẮC là Không dứt bỏ được.
* Nhĩ lai : là Gần đây, là Dạo nầy.
* Huề Quyển : là Cầm quyển sách lên, ý chỉ Học tập.
* Truân Truân : là Cần mẫn, Chăm chỉ.

3. Nghĩa Bài Thơ :
Đọc Sách Đêm Xuân

Người của ngày hôm nay không thấy được mùa xuân của thủơ xưa, nên giờ ta đang ngẩn ngơ trước mùa xuân hôm nay mà đối mặt với người xưa trên sách vở. Chuyện đời biết như thế nào mà nói, vì hôm nay chứ không phải ngày xưa nữa, nên đừng có nhận lầm những cái huyễn hoặc trước mắt là thực tế ( mà phải phân biệt cho rõ ràng ). Biết bao nhiêu danh lợi chỉ đến trong đêm như một giấc mộng, rồi kết thúc bằng một trận mưa sáng trôi đi tất cả, cũng như vô số anh hùng tụ hợp rồi cũng tan biến như lớp bụi mờ. Ta tự cười mình vì cái tật xấu xưa nay không bỏ đi được, nên gần đây hễ cứ cầm quyển sách lên là cứ đọc một cách chăm chỉ như ngày xưa vậy !
Biết được rằng Xưa không phải là Nay nữa, Xuân xưa khác xuân nay và Chuyện xưa cũng khác với Chuyện ngày nay, bằng chứng là biết bao danh lợi chỉ thoáng qua như giấc mộng trong đêm, anh hùng hào kiệt rồi cũng tan biến như bụi trần. Biết thế, mà vẫn cứ thế, hễ cầm được quyển sách lên là lại cứ muốn chăm chỉ mà học tập theo gương của người xưa, để làm gì ?! Vì rốt cuộc cũng có được gì đâu ?! Cao Bá Quát vừa cười mình ngớ ngẩn có thói quen xấu khó bỏ, lại vừa đề cao mình là người luôn luôn chăm chỉ học tập mặc dù biết rằng đọc sách chỉ là nhại lại những cái bã của cổ nhân !

4. Diễn Nôm :
Xuân Đọc Sách Xưa

Người nay chẳng thấy được xuân xưa,
Ngơ ngẩn xuân nay trước cổ thư.
Bao nả chuyện đời kim khác cổ,
Chớ lầm trước mắt thực làm hư.
Biết bao danh lợi theo mưa sáng,
Vô số hùng anh khuất bụi mờ.
Thói xấu cười mình không bỏ được,
Hễ cầm quyển sách cứ khư khư !

Lục bát:

Người nay không thấy xuân xưa,
Xuân nay ngơ ngác người xưa đâu rồi.
Chuyện đời kim cổ đổi vời,
Chớ lầm hư thực thực rồi hóa hư.
Lợi danh như sáng mưa thu,
Anh hùng bao kẻ mịt mù trần ai.
Cười mình tật cũ khó phai,
Quơ nhằm quyển sách miệt mài thâu canh.
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

6. Bài thơ XUÂN HÀN Nguyễn Bỉnh Khiêm:

春寒                      XUÂN HÀN
十二韶光春一團, Thập nhị thiều quang xuân nhất đoàn,
一天料峭送餘寒. Nhất thiên liệu tiễu tống dư hàn.
輕陰借雨侵花易, Khinh âm tá vũ xâm hoa dị,
殘雪因風墜柳難. Tàn tuyết nhân phong trụy liễu nan.
繡闥佳人低玉帳, Tú thát giai nhân đê ngọc trướng,
香街醉客促金鞍. Hương giai túy khách xúc kim an.
旋乾自有神功在, Toàn kiền tự hữu thần công tại,
已播陽和滿際蟠. Dĩ bá dương hoà mãn tế bàn.
阮秉謙                 Nguyễn Bỉnh Khiêm

* Chú Thích :
- XUÂN HÀN 春寒 : Cái lạnh của buổi đầu xuân.
- Thiều Quang 韶光 : là Cái khoảng thời gian đẹp đẽ.
- Liệu Tiễu 料峭 : là LIỆU TIỄU XUÂN HÀN 料峭春寒 là thành ngữ dùng để hình dung cái lạnh của buổi đầu xuân.
- Khinh Âm Tá Vũ 輕陰借雨 : là Trời âm u nhẹ trong cơn mưa xuân.
- Tàn Tuyết Nhân Phong 殘雪因風 : là Gió cuốn những tàn dư của băng tuyết còn lại.
- Tú Thát 繡闥 : là Trong phòng thêu, tức là Khuê phòng của các cô gái.
- Hương Giai 香街 : là Đường phố thơm, ý chỉ những đường phố có nhiều người đẹp ở hay đường phố có nhiều kỹ viện.
- Xúc 促 : là Thúc mạnh vào. KIM AN 金鞍 : là Yên cương ngựa mạ vàng.
- Toàn Kiền 旋乾 : là Tuyền Càn Chuyển Khôn 旋乾轉坤 là thành ngữ chỉ xoay chuyển từ Càn qua Khôn, từ Dương sang Âm và ngược lại; Nói chung là chỉ sự xoay vần của trời đất, vạn vật, mùa màng... hết đông rồi đến xuân...
- Bá 播 : là Gieo hạt giống , là Truyền Bá, là Rải khắp.
- Dương Hoà 陽和 : là Khí dương xuân, chỉ khí trời ấm áp của mùa xuân.
- Tế Bàn 際蟠 : là Trời Đất, do sách Trang Tử có câu: "Thượng tế vu thiên, hạ bàn vu địa 上際于天,下蟠于地", nghĩa là: Trên rộng đến trời, dưới khắp cả đất. Sau người ta dùng gọn bốn từ "Tế thiên bàn địa 際天蟠地" như là một thành ngữ. Ở đây, tác giả lại lược đi hai từ, chỉ còn hai từ "tế bàn 際蟠" nhưng cần hiểu như nghĩa của cả câu "tế thiên bàn địa".

* Nghĩa Bài Thơ:
CÁI LẠNH CỦA BUỔI ĐẦU XUÂN
Cái khoảng thời gian đẹp đẽ của 12 ngày đầu năm đã mở màn cho một vừng xuân sắc, Từng ngày một ta sẽ lần lượt đưa tiễn cái lạnh của buổi đầu xuân. Trời râm nhẹ với mưa xuân phơi phới sẽ ngấm vào hoa cỏ một cách dễ dàng, những làn gió đầu xuân còn rất lạnh khó mà thổi được những băng tuyết còn sót lại cho rơi xuống gốc liễu. Trong khuê phòng các giai nhân còn buông thấp rèm ngọc xuống vì trời còn lạnh, trên đường phố nơi có nhiều người đẹp các khách say cũng thúc vào yên cương mạ vàng để đi mau qua. Trời đất âm dương đã xoay chuyển một cách thần kỳ từ đông sang xuân, vá ánh dương xuân đã được gieo đầy khắp cả trên trời dưới đất.

* Diễn Nôm:
XUÂN HÀN

Mười hai xuân sắc đã vầy đoàn,
Cái lạnh lui dần tiết mới sang.
Phơi phới mưa xuân hoa ướm nhụy,
Rao rao gió nhẹ tuyết dần tan.
Khuê phòng người đẹp buông rèm ngọc,
Trên phố khách say thúc ngựa vàng.
Chuyển đổi thần công trời lẫn đất,
Ánh xuân chan chứa khắp nhân gian.

Lục bát:

Mười hai ngày tiết xuân hàn,
Mỗi ngày cái lạnh lại càng bớt đi.
Mưa xuân dễ thấm hoa chi,
Gió xuân lay liễu tuyết thì chưa tan.
Phòng khuê người đẹp buông màn,
Trên đường khách hãy yên vàng thúc mau.
Càn khôn huyền diệu làm sao,
Ánh dương xuân đã phủ mau đất trời!

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét