Theo sách " Đường Tài Tử Truyện"《唐才子传》ghi chép:
Nhà sư thi sĩ TỀ KỶ 齊己 (863—937) , người ở cuối đời Đường, đầu đời Ngũ Đại. Lúc nhỏ gia đình nghèo khó, phải đi chăn trâu độ nhật. Nhưng lại có chí cầu học, mỗi ngày đều đọc sách và làm thơ trên lưng trâu. Sư Cụ trong chùa thương tình cho vào chùa tu để có thời gian học hành và nghiên cứu Kinh Phật.
Một hôm gần cuối năm, như thường lệ, Tề Kỷ thức sớm cúng Phật và làm công phu buổi sáng trong khi đêm qua tuyết rơi rất lớn. Mở cửa ra sân nhìn về thôn xóm xa xa, chợt thấy trong nền tuyết trắng bao la lấm tấm có mấy cành mai đà hé nở ! Cảm cho cái tinh thần bất khuất trước tuyết đông giá lạnh, cái sức sống mạnh mẽ ngạo nghễ vươn lên giữa biển tuyết mênh mông của hoa mai, Tề Kỷ về phòng làm ngay bài thơ " TẢO MAI 早 梅 " để tán thán cho việc hoa mai nở sớm. Trong bài thơ có 2 câu rất hay là :
Tiền thôn thâm tuyết lý, 前村深雪裏
Tạc dạ SỔ chi khai. 昨夜數枝開。
Có nghĩa :
- Trong rừng tuyết của xóm phía trước xa xa...
- Tối đêm qua đã có VÀI cành mai đà hé nở !
Tề Kỷ rất đắc ý với 2 câu thơ nầy, nên mới đem khoe với
Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911), một thi sĩ đương thời. Trịnh Cốc đọc xong phê rằng : " SỔ Chi Khai 數枝開 " là VÀI cành mai đà nở, chưa thấy được cái " TẢO 早 " là SỚM của Mai, nên đổi lại là " NHẤT CHI KHAI 一枝開 " để nêu bật được cái SỚM của Hoa Mai nở trong tuyết lạnh ! Tề Kỷ nghe xong, phục sát đất, bèn sửa lại thành :
Tiền thôn thâm tuyết lý, 前村深雪裏
Tạc dạ NHẤT chi khai. 昨夜一枝開。
... và từ đó về sau gọi Trịnh Cốc là " NHẤT TỰ SƯ 一字师 ", vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho MỘT chữ ", lại vừa có nghĩa là " Ông Thầy dạy cho chữ NHẤT " !
Toàn bài thơ TẢO MAI của sư Tề Kỷ như sau:
早 梅 TẢO MAI
萬木凍欲折, Vạn mộc đống dục chiết,
孤根暖獨回。 Cô căn noãn độc hồi.
前村深雪裏, Tiền thôn thâm tuyết lý,
昨夜一枝開。 Tạc dạ nhất chi khai.
風遞幽香出, Phong đệ u hương xuất,
禽窺素豔來。 Cầm khuy tố diễm lai.
明年如應律, Minh niên như ứng luật,
先發望春臺。 Tiên phát Vọng Xuân Đài !
齊己 Tề Kỷ
CHÚ THÍCH :
- TẢO MAI : là Mai nở sớm, cũng có nghĩa là : Mai nở sớm hơn tất cả các loài hoa trong trời đông giá lạnh.
- ĐỐNG DỤC CHIẾT : Đống là Đong đá, Dục là Muốn, Chiết là Gãy. Có nghĩa là : Đong đá dòn đến muốn gãy luôn.
- NOÃN là Ấm. HỒI là Hồi Sinh. Nên Noãn Độc Hồi là : Nhờ Hơi ấm mà đơn độc hồi sinh .
- ĐỆ 遞 là Đệ Trình. Ở đây có nghĩa là Truyền đạt. Nên Phong Đệ là : Gió Đưa, gió đẩy.
- CẦM là Chim muông. KHUY là Nhìn ngắm.
- TỐ DIỄM là Trong Trắng đẹp đẽ. Ở đây chỉ Bạch Mai.
- ỨNG LUẬT : là Theo Quy Luật Tự Nhiên.
- VỌNG XUÂN ĐÀI : là Cái Đài Ngóng Xuân, lên đó để đợi mùa xuân tới. Đứng trên đài cao, có thể nhìn thấy mặt trời mọc trước, có thể đón tia đầu tiên của ánh nắng mùa xuân trước hơn là những người ở dưới thấp.
NGHĨA BÀI THƠ:
Muôn ngàn thảo mộc đều lạnh cóng đến muốn gãy ra. Chỉ riêng có rể của hoa mai là biết hút hơi ấm trong đất mà đơn độc hồi sinh. Cho nên, trong nền tuyết trắng xóa mênh mông của xóm trước xa xa, đêm qua một cành mai đã vươn lên nở hoa trong trời đông giá rét. Gió đã đưa cái hương thơm nhè nhẹ thoảng đi và chim cũng đã ngạc nhiên nhìn ngắm cành bạch mai thanh khiết trắng trong đẹp đẽ mà bay đến. Nếu sang năm lại theo cái quy luật "Nở Sớm" tự nhiên nầy, thì hoa mai ơi, hãy nở trước ở Vọng Xuân Đài để cho nhiều người nhìn ngắm, chớ ở nơi hoang sơ lạnh lẽo vắng vẻ nầy, có ai biết đến mà thưởng thức nhìn ngắm đâu!
Như trên đã nói, Sư Tề Kỷ đi tu chỉ vì nghèo, bất đắc dĩ và bất đắc chí không thi thố được tài năng, nên còn nặng nợ với công danh, ông ví mình như cành mai nở sớm kia, vượt lên trên trăm hoa để khoe sắc, nhưng lại khoe sắc trong vùng tuyết lạnh không người.... cũng như tài năng của ông bị mai một ở trong chùa không người biết đến vậy ! Cho nên, ông đã khuyên mai nên nở ở Vọng Xuân Đài cho mọi người nhìn ngắm để biểu lộ cái ao ước thầm kín trong lòng... Nếu được đi thi thì chắc ta cũng sẽ toả sáng như mai sớm tỏa hương cho mọi người ngưỡng mộ vậy !
DIỄN NÔM:
Tảo Mai
Muôn cỏ hoa đong cứng,
Rể truyền hơi ấm xanh.
Xóm ngoài trong tuyết lạnh,
Đêm qua nở một cành.
Gió đưa hương thoang thoảng,
Chim ngắm vẻ đẹp xinh.
Nếu sang năm lại sớm,
Vọng Xuân Đài nở quanh.
Lục bát:
Cỏ hoa lạnh cứng trời đông,
Riêng mai hơi ấm vẫn không phai tàn.
Xóm ngoài trong tuyết mênh mang,
Đêm qua nở trắng một cành bạch mai.
Gió đưa hương thoảng ra ngoài,
Chim nhìn ngắm vẻ thanh bai trong lành.
Sang năm lại sớm nở xanh,
Vọng Xuân Đài đó chung quanh lắm người.
Đỗ Chiêu Đức
Đọc bài thơ nầy, lại làm ta nhớ đến 2 câu cuối của bài " Cáo Tật Thị Chúng 告疾示眾 " của Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096) là một Thiền sư của Việt Nam ta là :
莫謂春殘花落尽, Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
庭前昨夜一枝梅 ! Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Có nghĩa:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân, đêm trước, nở cành mai!
Khi viết 2 câu thơ trên, hẵn Mãn Giác Thiền Sư cũng đã đọc qua bài thơ của nhà sư Tề Kỷ rồi.
Hẹn bài viết sau sẽ giới thiệu về TRỊNH CỐC, một thi sĩ của cuối đời Đường, đầu đời Ngũ Đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét