Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

Thi Thánh Đỗ Phủ Và Thi Hào Nguyễn Du

       Những ai thích và nghiên cứu thơ Đường đều không thể không biết qua 8 bài THU HỨNG của Đỗ Phủ, nhất là bài thứ nhất đã ảnh hưởng rất nhiều đến các thi nhân Việt Nam, kể cả Thi Hào NGUYỄN DU của ta nữa...
      Bây giờ đang là mùa thu, xin kính mời tất cả cùng đọc lại bài thơ nầy và các bài thơ " bị ảnh hưởng " khác....

   秋興     其一                       Thu  Hứng        K nhất

玉露凋傷楓樹林,    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, 

巫山巫峽氣蕭森。    Vu sơn Vu giáp khí tiêu sâm. 

江間波浪兼天湧,    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, 
塞上風雲接地陰。    Tái thượng phong vân tiếp địa âm. 
叢菊兩開他日淚,    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, 
孤舟一繫故園心。    Cô chu nhất hệ cố viên tâm. 
寒衣處處催刀尺,    Hàn Y xứ xứ thôi đao xích, 
白帝城高急暮砧。    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
                杜甫                                                  Đỗ Phủ

DỊCH NGHĨA:
Ngày Thu Cảm Khái - Bài 1

1. Sương móc phủ trắng làm cho rừng phong thêm tiêu điều .

2. Núi Vu, khe Vu hơi thu hiu hắt thâm u .

3. Sóng trên mặt sông từng đợt như nhảy tận lưng trời 

4. Trên cửa ải mây mù cùng sương khói như giăng sát mặt đất 
5. Bụi cúc đã hai lần nở hoa làm rơi nước mắt của ngày xưa cũ.
6. Sợi dây của chiếc thuyền đơn lẻ còn buộc chặc tình cố hương. 
7. Ở đây nơi nơi ai nấy đều đang lo cắt may áo rét .
8. Trên thành Bạch Đế cao cao nầy, tiếng chày giặt áo về chiều
    nghe như càng hối hả hơn thêm.

     Năm Đại Lịch Nguyên niên (766), Đỗ Phủ lưu lạc ở đất Quì Châu, do loạn An Lộc Sơn nên vẫn còn cảnh chiến tranh loạn lạc. Lúc bấy giờ ông đã 55 tuổi rồi mà hùng tâm tráng chí chưa thi thố được gì cả, lại nhiều bệnh tật, bạn bè lại cách trở sơn khê, nên trong cảnh núi non ảm đạm, gió thu hiu hắt của mùa thu, xúc cảnh sanh tình, khơi niềm cảm hứng mà sáng tác 8 bài THU HỨNG nầy. 8 bài đi liền một thể, nhưng cũng có thể tách riêng mà thưởng thức từng bài một. Bài THU HỨNG thứ nhất là bài được mọi người biết đến nhiều nhất và được các danh nhân Việt Nam ta diễn nôm nhiều nhất.       Mời tất cả cùng đọc các bài diễn nôm sau đây :

Lác đác rừng phong hạt móc sa, 

Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa. 

Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, 
Mặt đất mây đùn cửa ải xa. 
Khóm cúc tuôn đôi dòng lệ cũ, 
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. 
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước, 
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.
Nguyễn Công Trứ
***

Vàng úa rừng phong, hạt móc bay, 

Non Vu hiu hắt phủ hơi may. 
Dòng sông cuồn cuộn, trời tung sóng, 
Ngọn ải mờ mờ, đất rợp mây. 
Lệ tủi: sợ coi chòm cúc nở, 
Lòng quê: mong buộc chiếc thuyền đầy. 
Giục ai kéo thước lo đồ lạnh, 
Đập vải trời hôm rộn tiếng chày.
Ngô Tất Tố: 


Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy, 

Vu Sơn, Vu Giáp khí thu dày. 
Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy, 
Đầu ải mây sà mặt đất bay. 
Lệ cũ nở hai mùa cúc đó, 
Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây. 
Nơi nơi áo lạnh địi dao thước, 
Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
Khương Hữu Dụng

***
Sương đọng rừng phong héo hắt cây 

Vu Sơn, Vu Giáp, khí mù bay 

Trên sông sóng cuộn, trời liền nước 
Ngoài ải hơi đùn, đất giáp mây 
Một chiếc thuyền đơn tình cũ buộc 
Hai phen cúc nở lệ xưa đầy 
Nơi nơi áo lạnh tìm dao thước 
Bạch Đế chiều hôm rộn tiếng chày.
Bùi Khánh Đản
***
Dịch ra thơ Lục Bát 

      

Rừng phong xơ xác sương bay, 
Vu sơn Vu giáp hơi may lạnh lùng. 
Ngất trời sóng dội lòng sông, 
Mịt mù mặt đất, mây lồng ải xa. 
Con thuyền buộc mối tình nhà, 
Hai lần cúc nở, lệ sa hai hàng. 
Áo đông may cắt rộn ràng, 
Tiếng chày đập vải, hôm vang Bạch thành.
Trần Trọng Kim
***
Bài Diễn Nôm:


Rừng phong hiu hắt phủ mờ sương,

Núi Giáp non Vu lạnh buốt xương.
Sóng vỗ ngất trời sông nước cuốn,
Hơi mù rợp đất gió mây vương.
Hai lần cúc nở thương ngày cũ,
Một mối thuyền con luyến cố hương.
Thành Bạch nhà nhà may áo ấm,
Tiếng chày đập vải rộn muôn phương.
Đỗ Chiêu Đức

 

     Bài thơ này vừa là bức tranh phong cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của Đỗ Phủ trong cảnh loạn ly. Ông lo cho vận nước đang cơn bĩ cực và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách quê người.

      Cùng một tâm trạng như Đỗ Phủ...
     Ta thấy  hai bài Thu Dạ của Nguyễn Du, cũng làm lòng người cảm thấy nao nao cho tâm trạng  của ông trong hoàn cảnh khốn đốn tản cư lánh nạn giữa thời ly loạn . Hai bài thơ nầy được trích trong Thanh Hiên Thi Tâp ( 78 bài ) nằm trong phần " Mười năm gió bụi" ( 1786-1795 )thời gian ông lẫn trốn ở Quỳnh Côi quê vợ thuộc Thái Bình. Hai bài thơ  tả cảnh ĐÊM THU thật buồn, nhất là Bài 2 nói lên cái hoài bão trong lòng của ông và nhất là lại sử dụng lại các VẦN của bài THU HỨNG 1 của Đỗ Phủ làm cho ta lại càng cảm thấ lí thú và xúc động hơn.  Mời tất cả cùng đọc lại bài thơ nầy...

      秋夜 其二                   Thu Dạ   Bài 2

 白露為霜秋氣深,     Bạch lộ vi sương thu khí thâm,

 江城草木共蕭森。  Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm. 

 剪燈獨照初長夜,    Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ, 
 握髮經懷末日心。  Ốc phát kinh hoài mạt nhật tâm. 
 千里江山頻悵望,    Thiên lí giang sơn tần trướng vọng, 
 四時煙景獨沉吟。  Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm. 
 早寒已覺無衣苦,    Tảo hàn dĩ giác vô y khổ, 
 何處空閨催暮砧。  Hà xứ không khuê thôi mộ châm.
               阮攸                                                Nguyễn Du

CHÚ THÍCH :
- Tiễn đăng 剪燈 : Cắt hoa đèn để cho ngọn lửa cháy sáng. Có lẽ tác giả liên tưởng đến hai câu thơ của Lý Thương Ẩn:

    "Hà đương cộng tiễn tây song chúc,    何當共剪西窗竹,

     Khước thuyết Ba Sơn dạ vũ thì"         卻說巴山夜雨時?
(Bao giờ mới được cùng nhau cắt hoa đèn nơi song cửa phía tây, (để) Kể cho nhau nghe nỗi lòng nơi Ba Sơn lúc đêm mưa lạnh đây ? ).

- Ốc Phát 握髮 : Ốc 握 Có bộ THỦ là Tay bên trái, nên chỉ động tác của tay, có nghĩa là NẮM, như ỐC THỦ là Bắt Tay ( ta gọi là " Bonjuor " ). Chữ nầy còn được đọc là ÁC, nên Ốc Phát còn đọc là Ác phát:
   Theo điển ỐC PHÁT THỔ BỘ 握髮吐哺 là viết gọn lại của câu : 一沐三握髮,一飯三吐哺  Nhất mộc tam ỐC PHÁT, Nhất phạn tam THỔ BỘ, có nghĩa : Một lần gội đầu phải vắt tóc lên 3 lần, Một lần ăn cơm phải nhả cơm ra 3 lần, nên " Ác phát thổ bộ" là vắt tóc nhả cơm: Do tích Chu Công là một đại thần của nhà Chu rất chăm lo việc nước. Đang ăn cơm, có khách đến nhả cơm ra tiếp; đang gội đầu có sĩ phu tới, liền vắt tóc ra đón, hết người này đến người khác, ba lần mới gội đầu xong, ba lần mới ăn cơm xong. Câu thơ của Nguyễn Du ý nói: Chí nguyện được đem tài mình  ra giúp nước như Chu Công, cuối cùng không biết có toại nguyện hay chăng  ? Nghĩ đến mà lòng vô cùng lo ngại.

DỊCH NGHĨA :
1. Móc trắng thành sương , hơi thu đã già,
2. Cây cỏ quanh thành bên sông đều có vẻ tiêu điều .
3. Một mình khêu ngọn đèn lẻ loi ,đêm bắt đầu dài .
4. Vắt tóc vẫn lo cho cái chí nguyện trong những ngày cuối đời .
5. Non sông nghìn dặm nhìn mà buồn ngơ ngẩn.
6. Phong cảnh bốn mùa riêng mình luống ngậm ngùi
7. Mới rét mà đã thấy khổ vì không áo ấm ,
8. Văng vẳng nơi đâu tiếng đập vải của người khuê phụ rộn rã trong bóng chiều tà .

DIỄN NÔM:
                  Đêm Thu - Bài 2   

                                                              

Móc trắng thành sương thu đã sâu,
Bên thành hoa cỏ cũng rầu rầu.
Chong đèn một bóng đêm vằng vặc,
Vắt tóc toàn tâm Ý những sầu.
Ngàn dặm núi sông hằng trông ngóng,
Bốn mùa cảnh trí gợi lo âu.
Khổ thay lạnh sớm chưa may áo,
Tiếng chày giặt tối vẳng đâu đâu!

Đỗ Chiêu Đức

      Sát sao hơn NGUYỄN DU, NGUYỄN LỘ TRẠCH sử dụng lại một cách đầy đủ hơn để họa  các VẬN trong bài THU HỨNG của Đỗ Phủ, nhưng... không phải để than van oán trách buồn thảm cho số phận hẫm hiu của mình, mà là... một tấm chân tình của một Nhà Nho Ưu thời mẫm thế lo cho thời cuộc, cho đất nước trong buổi tàn thu. Ta hãy cùng đọc bài thơ THU HOÀI sau đây của ông...

1. BẢN CHỮ HÁN CỔ CỦA BÀI THƠ :
        

            Thu Hoài                                                 秋懷

Cực mục tiêu sơ hồng diệp lâm                      極目蕭條紅葉林,
Thiên Sơn tĩnh lập ảnh sâm sâm                    千山靜立影森森。
Tiểu lâu đoạn giác minh sương lãnh              小樓斷角鳴霜冷,
Chiến lũy trầm luân khốc nhật âm                  戰壘沉淪哭日陰。
Thảo muội kinh dinh tiên thế nghiệp              草昧經營先世業,
Giang hồ ưu ái hủ nho tâm                              江湖優愛腐儒心。
Vạn gia chinh phạt hàn y tận                          萬家征伐寒衣盡,
Sầu sát thu khuê xứ xứ châm                           愁殺秋閨處處砧。
               Nguyễn Lộ Trạch                                          阮露澤

           Nguyễn Lộ Trạch sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 tại Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, quê gốc của ông là làng Kế Môn, huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế).
          Tổ tiên ông trước ở vùng châu Hoan-châu Ái (tức vùng Thanh Hóa-Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay), đến thế kỷ 16, theo tướng Nguyễn Hoàng vào vùng Thuận Hóa. Cha ông là Nguyễn Thanh Oai, đỗ Tiến sĩ năm 1843 dưới triều vua Thiệu Trị (cùng khoa với danh thần Phạm Phú Thứ), từng giữ chức quyền Thượng thư bộ Hình, Tổng đốc Ninh Thái (gồm Bắc Ninh và Thái Nguyên)...

         Nguyễn Lộ Trạch là người đọc nhiều sách, biết nghề thuốc, có kiến thức sâu rộng, nhưng không đi thi, chỉ chú tâm vào con đường thực dụng. Ông thường ngao du khắp các tỉnh miền Trung, tìm người cùng chí hướng kết giao, được người đương thời goi là "cậu ấm tàng tàng" .

   2. CHÚ THÍCH:
       CỰC MỤC : là nhìn mút con mắt.

       TIÊU SƠ : là Thưa thớt, Lèo tèo.

       ẢNH SÂM SÂM : là Cái bóng Âm U, Mờ Mịt.
       TIỂU LÂU : là Lầu Nhỏ, Ở đây là Vọng Gác.
       ĐOẠN GIÁC : là Dứt tiếng Tù Và( thổi khi gác ).
       MINH 鳴 : là Thổi, là Kêu, là Hót, là Gỏ.
       TRẦM LUÂN : là Chìm Đắm. Ở đây Nghĩa là Bị Che Phủ, Mờ Mịt.
       THẢO MUỘI : là Buổi Ban Sơ,
       HỦ NHO : là Nhà Nho Hủ Lậu, đây chỉ là lời nói khiêm nhường.
        CHÂM : là Tấm Thớt. Ngày xưa dùng lót ở dưới để đập chỉ, tơ hoặc quần áo... cho sạch. Đây là cách giặt giũ ngày xưa, vì vải vóc ngày xưa rất thô kệt, đọc thơ Đường ta hay thấy từ nầy, tiếng ĐẬP( GIẶT ) quần áo hay làm cho người ta buồn hoặc nhớ nhà....

   3. NGHĨA BÀI THƠ:
                                     Thu Hoài Cảm

             Nhìn mút con mắt cũng chỉ thấy rừng lá đỏ tiêu điều lèo tèo thưa thớt. Ngàn núi đứng yên trong cảnh thâm u mờ mịt của mùa thu. Trên vọng gác đã dứt tiếng tù và thổi lên trong sương lạnh, và chiến lũy thì mờ mịt như đang khóc trong trời thu ảm đạm. Sự nghiệp kinh doanh của đời trước mờ mịt như thuở ban sơ. Sông hồ thì như còn ưu ái với lòng của kẻ hủ nho nầy. Muôn nhà vì chinh chiến mà  hàn Y đã cạn kiệt, nên kẻ trong phòng khuê buồn muốn thúi ruột khi nghe tiếng chày giặt áo quần vải vóc vang lên khắp nơi ( để gấp rút may thêm áo lạnh gởi ra chiến trường ).
   4. DIỄN NÔM:

Mút mắt tiêu điều rừng lá đỏ,
Đứng yên ngàn núi bóng thâm u.

Gác canh vắng ngắt trong sương sớm,

Chiến lũy mịt mờ lúc sáng thu.
Sự nghiệp cha ông con cháu giữ,
Tấc lòng nho hủ nước sông lưu.
Muôn nhà chinh chiến hàn Y hết,
Tiếng giặt chày vang buồn chiến khu!

Đỗ Chiêu Đức 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét