Thứ Ba, 10 tháng 8, 2021

Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm 宿晉昌亭聞驚禽 - Lý Thương Ẩn

 

Nguyên tác           Dịch âm

宿晉昌亭聞驚禽 Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm


羈緒鰥鰥夜景侵 Ky tự quan quan dạ cảnh xâm,
高窗不掩見驚禽 Cao song bất yểm kiến kinh cầm.
飛來曲渚煙方合 Phi lai Khúc Chử yên phương hợp,
過盡南塘樹更深 Quá tận Nam Đường thụ cánh thâm.
胡馬嘶和榆塞笛 Hồ mã tê hoà Du tái địch,
楚猿吟雜橘村砧 Sở viên ngâm tạp Quất thôn châm.
失群掛木知何限 Thất quần quải mộc tri hà hạn,
遠隔天涯共此心 Viễn cách thiên nhai cộng thử tâm.
 
  
李商隱              Lý Thương Ẩn
***
Dịch thơ

Trọ đình Tấn Xương thấy chim sợ
Lữ khách đêm thâu dạ bất an
Cửa song bỏ ngỏ thấy chim than
Bay qua bãi ngoặt lồng sương khói
Đến tận lùm cây ao phía Nam
Vượn Sở nhịp chày thôn Quất đập
Ngựa Hồ hòa sáo ải Du ngân
Lạc bầy ẩn khóm bao giờ thoát
Ta cũng chân trời sống một thân


Con Cò
***
Nguyên tác:         Phiên âm:


宿晉昌亭聞驚禽 Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm

羈緒鰥鰥夜景侵 Cơ tự quan quan dạ cảnh xâm,
高窗不掩見驚禽 Cao song bất yểm kiến kinh cầm.
飛來曲渚煙方合* Phi lai Khúc Chử yên phương hợp,
過盡南塘樹更深 Quá tận Nam Đường thụ cánh thâm.
胡馬嘶和榆塞笛 Hồ mã tê hoà Du Tái địch,
楚猿吟雜橘村砧 Sở viên ngâm tạp Quất Thôn châm.
失群掛木知何限 Thất quần quải mộc tri hà hạn,
遠隔天涯共此心 Viễn cách thiên nhai cộng thử tâm.
李商隱                 Lý Thương Ẩn

Ngự Định Toàn Đường Thi cho 1 dị bản trong câu 3: hành行 thay vì phi飛.
Lý Hy San Thi Tập (Đường) của Lý Thương Ẩn 李羲山詩集 (唐) 李商隱, Văn Uyển Anh Hoa - Tống - Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉, cũng như Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển (Minh) của Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選 (明) 曹學佺 không có dị bản.

Ghi chú:

Tấn Xương: tên tự của Phùng Hy (438-495) sanh tại Tín Đô, Trường Lạc nay là Ký Châu, Hà Bắc, đại thần thời Bắc Ngụy, tên làng/phường/huyện ở Trường An
Khúc Chử: tức Khúc Giang Trì, tên ao đời Đường ở đông nam Trường An, phía đông phố Chu Tước, nay là Tây An, Thiểm Tây. Ao dài như con sông ngắn, khúc khuỷu quanh co, nên gọi Khúc Giang.
Nam Đường: ao trước chùa Đại Từ Ân ở Tấn Xương, Trường An. Chùa là một trong nhiều trung tâm dịch thuật Kinh Phật do sư Huyền Trang gầy dựng từ thời nhà Đường.
Khúc Chử: thử chỉ Khúc Giang Trì 曲渚:此指曲江池 Khúc Chử chỉ Khúc Giang Trì . Nam Đường: tức Đại Từ Ân Tự tiền đích nam trì 南塘:即大慈恩 寺前的南池 Nam Đường là ao phía nam chùa Đại Từ Ân. Nhị xứ giai dữ Tấn Xương lý vi cận 二处皆与晋昌里为近. Hai nơi này gần làng Tấn Xương.
Hồ mã: ngựa nuôi ở đất Hồ, vùng dân tộc Tây Bắc; quân lính của người Hồ. Ẩn dụ cho lòng thương nhớ quê hương vì ngựa Hồ, mỗi khi gió bắc thổi, thì ngẩng cao đầu hí dài thảm thiết.
Du Tái: địa danh ở tây bắc Trung Hoa, còn có tên là Du Quan hay Du Lâm Tái ở Cam Túc, nơi tướng Mông Điềm 蒙恬 nhà Tần xây ải để chống Hung Nô, tên chung là đồn biên phòng.
Sở viên: vượn đất Sở, vùng Tam Vu Tam Giáp tỉnh Hồ Bắc.
Quất Thôn: Quất Châu, nay là Hán Thọ, Hồ Nam, xưa là đất được giao Ngô Lý Hành 吴李衡 để trồng cam.

Phân tích bài thơ:

Túc Tấn Xương Đình Văn Kinh Cầm
Trọ Đình Tấn Xương Nghe Chim Sợ Hãi Kêu
Bài thơ Đường luật, thất ngôn, bát cú, luật trắc, vần bằng, hoàn hảo về niêm, vận, đối xứng, tiết tấu và bố cục.

Đề:

Cơ tự quan quan dạ cảnh xâm,
Cao song bất yểm kiến kinh cầm.
Lòng cô đơn man mác trong đêm dần đến,
Cửa sổ cao không đóng, thấy con chim sợ hãi.

Đêm cuối thu năm Đại Trung thứ 5, Tử Châu khí trời oi ả, khách trọ tại đình Tấn Xương cô đơn, buồn man mác không ngủ được. Bỗng nghe tiếng kêu sợ hãi của chim, khách đứng lên sau màn cửa sổ cao đang mở rộng nhìn thấy bên ngoài.

Thực:

Phi lai Khúc Chử yên phương hợp
Quá tận Nam Đường thụ cánh thâm.
Đã bay qua bãi Khúc Chử mà sương vừa phủ kín.
Vượt đến ao Nam Đình, phía sau cây cối càng rậm rạp.
Những con chim lạc bầy bay qua bãi Khúc Chử, mà mây vừa phủ kín. Qua khỏi ao ở Nam Đường, cây cối rậm rạp hơn nên không biết chúng bay về đâu.

Đối xứng: Phi lai Khúc Chử yên phương hợp
Quá tận Nam Đường thụ cánh thâm

Luận:

Hồ mã tê hoà Du tái địch,
Sở viên ngâm tạp Quất thôn châm.
Ngựa Hồ hí hoà với tiếng sáo từ quan ải Du,
Vượn Sở hú lẫn với tiếng chày giặt thôn Quất.
Cảnh hoang dã không những làm chim sợ hãi, còn làm ngựa Hồ hí vang hòa vào tiếng sáo từ quan ải Du. Vượn Sở gần Tam Hiệp hú không cùng nhịp với tiếng chày giặt áo quần từ thôn Quất.

Đối xứng: Hồ mã tê hoà Du tái địch
Sở viên ngâm tạp Quất thôn châm

Kết:

Thất quần quải mộc tri hà hạn,
Viễn cách thiên nhai cộng thử tâm.
Lạc bầy nương vào cây, biết đến bao giờ mới hợp lại,
Tấm lòng ta cũng thế dù ở nơi chân trời xa cách.
Chim lạc đàn chỉ biết nương tựa vào cây cối không biết bao giờ mới hợp lại nhau? Dù ở chân trời xa cách lòng ta cũng cảm thông nỗi lo buồn và sợ hãi của kẻ lạc bầy xa cách cô đơn.

Dịch thơ:

Chim Sợ Hãi


Cô đơn buồn thoảng màn đêm xuống,
Chợt thấy ngoài xa chim hoảng bay.
Khúc Chử bãi sông sương chớm phủ,
Nam Đường ao lạnh cạnh rừng cây.
Ngựa Hồ hí thảm sáo Du ải,
Vượn Sở thê lương lẫn tiếng chày.
Lạc bạn lìa đàn sao hợp lại?
Phương trời xa cách thấu lòng này.



Staying at the Jin Chang Temple Hearing Frightened Birds
by Li Shang Yin


Feeling lonely and sad as the night was approaching slowly,
Suddenly I heard and seen a frightened bird through the opened high window.
It was flying over the river bend Qu Zhu, just covered by fog,
To arrive at the Nan Tang pond, beyond trees were much darker.
Hu horse neighed in harmony with flute from Yu fort,
Chu apes cries were lost in washing bat sounds from Orange village.
Separated from their flock and relying only on trees, who knew how long it would take for them to reunite?
From this far and separated corner of heaven, my heart shared in the sorrow.

Phí Minh Tâm 
***
Trọ Tấn Xương Đình Nghe Chim Kinh Hãi

Trừng trừng lữ khách bóng đêm thâu
Không khép cửa cao thấy điểu sầu
Khúc Chử bay qua mù khói tỏa
Nam Đường vượt đến khắp rừng sâu
Ngựa Hồ hí, sáo Du biên vắng
Vượn Sở kêu, chầy Quất đập mau
Bầy lạc nương cây đâu lúc hết?
Ta nơi trời thẳm cũng lòng đau!

Lôc Bắc
***
Cảm Tác:

Một Mình


Từ bào thai đã một mình
Cô đơn dẫu có thêm hình bóng ai
Riêng ta đau ốm lai rai
Riêng ta lủi thủi sớm mai chiều tà
Đói no cũng một mình ta
Lạnh nóng, tê dại nuột nà thịt da
Đáy lòng, môi miệng lời ra
Lết lê giữa chốn ta bà một thân

Đồ Cóc



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét