Thứ Tư, 9 tháng 10, 2019

Lý Bạch Ôm Trăng


Về cái chết của Thi Tiên LÝ BẠCH, có ba nguồn như sau: Một là uống rượu say chết; Hai là nhuốm bệnh mà chết; Ba là say rượu ôm trăng chết đuối. 

Theo sách Cựu Đường Thư thì cho là "Dĩ ẩm tửu quá độ, túy tử vu Tuyên Thành 以饮酒过度,醉死于宣城". 
Có nghĩa: Vì uống rượu quá độ mà say chết ở Tuyên Thành. Nguồn thứ hai, theo các sử gia khảo chính : Khi Lý Quang Bậc trấn thủ phía đông đất Lâm Hoài để chống lại loạn tướng An Lộc Sơn, lúc bấy giờ tuy Lý Bạch đã 61 tuổi cũng muốn đến đó để cùng chống giặc, nhưng giữa đường nhuốm bịnh trở về. Năm sau thì mất ở Đương Đồ huyện, huyện lệnh Lý Dương Băng là nhà thư pháp nổi tiếng về triện thư lúc bấy giờ. Nguồn thứ ba, là năm Càn Nguyên thứ 2 (759), Lý Bạch bị đày đến Vu Sơn, giữa đường gặp cơn đại hạn, nên triều đình ra lệnh ân xá tất cả phạm nhân. Trên đường trở về, khi đi ngang qua Đương Đồ huyện, thuyền đi trên sông Thái Thạch, Lý Bạch uống say nhảy xuống ôm vầng trăng dưới nước và bị chết đuối. Cái chết đầy thi vị nầy được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và mãi cho đến hiện nay.

Cái chết ôm trăng mặc dù không được chính sử ghi chép, nhưng lại được lưu truyền rộng rãi vì tính siêu thoát và thi vị của một Thi Tiên, mà ngay Thi Thánh ĐỖ PHỦ nhắc đến cũng phải trầm trồ là:

白也詩無敵, Bạch dã thi vô địch,
飄然思不群。 Phiêu nhiên tứ bất quần.

Có nghĩa:
Lý Bạch vô địch Thi Tiên,
Tứ thơ bay bỗng khắp miền nhân gian!

Khi Lý Bạch mất vì vớt trăng bên dòng Thái Thạch, Đỗ Phủ cũng đã nhớ bạn qua bài Thiên Mạc Hoài Lý Bạch 天末懷李白 như sau:

涼風起天末, Lương phong khởi thiên mạt,
君子意如何。 Quân tử ý như hà?
鴻雁幾時到, Hồng nhạn kỷ thời đáo,
江湖秋水多。 Giang hồ thu thủy đa.
文章憎命達, Văn chương tăng mệnh đạt,
魑魅喜人過。 Si mị hỉ nhân qua.
應共冤魂語, Ưng cộng oan hồn ngữ,
投詩贈汨羅。 Đầu thi tặng Mịch La. 

Có nghĩa:

Gió thu nổi ven trời,

Bạn hiền đã sao rồi ?
Tin nhạn bao giờ tới,
Sông hồ nước vẫn trôi.
Văn chương bất đắc chí,
Yêu quái mặc rong chơi.
Oan hồn cùng yên ủi,
Mịch La thơ tặng người !
Lục bát :
Gió thu hiu hắt bên trời,
Hỏi người quân tử độ rày ra sao ?
Trông tin hồng nhạn biết bao,
Sông hồ giờ đã dâng trào nước thu.
Văn chương ghét kẻ ôn nhu,
Đầy đường ma quái như thù ghét ghen,
Oan hồn cùng tỏ nỗi niềm,
Mịch La thơ trút niềm riêng tặng người! 

Ngoài ra Đỗ Phủ còn có hai bài thơ MỘNG LÝ BẠCH nữa. Vì Lý Bạch say trăng tự trầm trên sông Thái Thạch, nên trên Thái Thạch Cơ, bờ đá bên dòng Thái Thạch có rất nhiều danh thắng để tưởng nhớ đến Thi Tiên, như Lý Bạch Mộ 李白墓, Trích Tiên Lâu 謫仙樓, Tróc Nguyệt Đình 捉月亭... Tất cả những văn nhân thi sĩ, sứ thần nước ngoài khi đi sứ ngang qua đây đều có làm thơ tưởng nhớ đến Lý Bạch. Cụ Nguyễn Trãi nhà ta trong thời gian ở Trung Hoa cũng có bài thơ Thái Thạch Hoài Cổ 采石懷古 để tưởng nhớ đến Thi Tiên:

采石曾聞李謫仙, Thái Thạch tằng văn Lý Trích Tiên,
騎鯨飛去已多年。 Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên.
此江若變為春酒, Thử giang nhược biến vi xuân tửu,
只恐波心尚醉眠。 Chỉ khủng ba tâm thượng túy miên.

Có nghĩa:

Thái Thạch từng nghe Lý Bạch say,
Cởi kình bay biết mấy năm nay.
Sông này nếu biến thành xuân tửu,
Lòng sóng e rằng vẫn ngủ say!

Lục bát:
Từng nghe Thái Thạch Trích Tiên,
Cởi kình bay mất bao niên trước rồi.
Nước sông biến rượu xuân trôi,
Chỉnh e lòng sóng say vùi ngủ yên!

Thi nhân Mai Nghiêu Thần 梅堯臣 đời Tống cũng có bài thơ THÁI THẠCH HOÀI CỔ để tưởng nhớ đến Lý bạch như sau :


青峰来合沓, Thanh phong lai hợp đạp,

势壓大江雄。 Thế áp đại giang hùng.
舟渡神兵後, Chu độ thần binh hậu,
城荒王氣空。 Thành hoang vương khí không.
山根魚浪白, Sơn căn ngư lãng bạch,
岩壁石蘿红。 Nham bích thạch la hồng.
弄月人何在, Lộng nguyệt nhân hà tại ?
孤墳细草中。 Cô phần tế thảo trung.

Có nghĩa:


Núi xanh chồng chất chập chùng,
Lượn quanh thế nước oai hùng chảy sang.
Thần binh thuyền mới sang ngang,
Thành không vương khí tan hoang mất rồi.
Cá sông quẫy sóng trắng ngời,
Núi nham hoa dại đỏ tươi la hồng.
Nào người giởn nguyệt bên sông,
Cỏ cao mồ vắng nghe lòng xót xa!

"Cỏ Cao Mồ Vắng" là ở vào đời nhà Tống, nhưng từ đời nhà Minh đến hiện nay thì đây là khu du lịch danh thắng nổi tiếng thu hút rất nhiều danh nhân thi sĩ đến du ngoạn và đề thơ. Cả đến những người không ra gì cũng đến đề thơ "con cóc" đầy khắp cả tường, cả những cây xung quanh mộ của Thi Tiên Lý Bạch để nâng cao thân phận của mình, để chứng tỏ "ta đây" cũng là tay ..."Thơ Thẩn !". Cho nên, danh sĩ Mai Chi Hoán 梅之煥 ở cuối đời Minh, khi đi ngang qua đây ghé viếng mộ Lý Bạch, thấy cảnh đề thơ bát nháo của người đời đã cảm khái mà ... đề thơ rằng:

採石江邊一堆土, Thái Thạch giang biên nhất đôi thổ,
李白之名高千古; Lý Bạch chi danh cao thiên cổ;
來來往往一首詩, Lai lai vãng vãng nhất thủ thi,
魯班門前弄大斧。 Lổ Ban môn tiền lộng đại phủ !

Có nghĩa:


Bên dòng Thái Thạch một mồ cao,
Lý Bạch thi tiên cao biết bao;
Tới tới lui lui thơ bát nháo,
Lỗ Ban múa búa, chả làm sao!

Ý của danh sĩ họ Mai là rất nhiều người ở trên đời nầy không biết tự lượng sức mình, cứ muốn làm thơ để sánh ngang hàng với Thi Tiên Lý Bạch, chả khác gì như dám cầm cây búa lớn mà múa trước cửa của ông tổ nghề thợ mộc là Lỗ Ban vậy. Thành ngữ "Múa búa trước cửa Lỗ Ban" cũng được hình thành do bài thơ nầy mà ra đó vậy.

Lý Bạch chẳng những là Thi Tiên, mà còn được người đời tôn là TỬU TIÊN 酒仙 nữa. Suốt ngày ông cứ lâng lâng trong men rượu. Ban đêm thì:

舉杯邀明月, Cử bôi yêu minh nguyệt,
對影成三人. Đối ảnh thành tam nhân.

Có nghĩa:

Nâng chén mời trăng sáng,
Đối bóng thành ba người. 


...và:

人生得意須盡歡, Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
莫使金樽空對月。 Mạc sử kim tôn không đối nguyệt.

Có nghĩa:

Người đời đắc ý cứ say vùi,
Đừng để chai không thẹn ánh trăng.

Ban ngày thì:

鐘鼓饌玉不足貴, Chung cổ soạn ngọc bất túc qúy,
但願長醉不願醒. Đản nguyện trường túy bất nguyện tỉnh.

Có nghĩa:

Chuông trống cao lương chưa đủ qúy,
Nguyện say tuý lúy thoả lòng đây.

... và:

五花馬,千金裘, Ngũ hoa mã, thiên kim cầu.
呼兒將出換美酒, Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
與爾同銷萬古愁! Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu!

Có nghĩa:

Ngựa ngũ hoa, áo lông cừu,
Bảo trẻ mang ra đổi rượu mau,
Ta bạn cùng vơi vạn cổ sầu!

Ngoài Thi Tiên, Tửu Tiên ra, Lý Bạch còn là một KIẾM TIÊN 劍仙 mà ít có người đời biết đến. Ông là một kiếm khách hiệp nghĩa cứu khổn phò nguy như trong bài thơ HIỆP KHÁCH HÀNH nổi tiếng của ông đã được nhà văn Kim Dung triển khai thành bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng cùng tên "HIỆP KHÁCH HÀNH" với các nhân vật Cẩu Tạp Chủng và Thiện Ác nhị sứ náo động giang hồ. Bài thơ Hiệp Khách Hành của ông có những vế thơ hào hùng của nhũng hiệp khách trượng nghĩa bất cầu danh, như:

...十步杀一人, Thập bô sát nhất nhân,

千里不留行。 Thiên lý bất lưu hành.
事了拂衣去, Sự liễu phất y khứ,
深藏身与名。 Thâm tàng thân dữ danh...

Có nghĩa:

Mười bước kiếm giết một người,
Ruổi dong ngàn dặm không lùi bước chân.
Rủ áo khi việc đã xong,
Mai danh ẩn tích không mong đáp đền.

Đó là Giai Thoại về Thi Tiên LÝ BẠCH ÔM TRĂNG.

Đỗ Chiêu Đức 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét