1- GIÁ CÔ THIÊN - Án Kỷ Đạo
鷓鴣天其一 - 晏幾道
彩袖殷勤捧玉鐘,
當年拚卻醉顏紅。
舞低楊柳樓心月,
歌盡桃花扇底風。
從別後,
憶相逢,
幾回魂夢與君同。
今宵剩把銀釭照,
猶恐相逢是夢中。
Giá Cô Thiên kỳ 1 - Án Kỷ Đạo
Thải tụ ân cần phủng ngọc chung,
Đương niên biện khước tuý nhan hồng.
Vũ đê dương liễu lâu tâm nguyệt,
Ca tận đào hoa phiến để phong.
Tùng biệt hậu,
Ức tương phùng,
Kỷ hồi hồn mộng dữ quân đồng.
Kim tiêu thặng bả ngân cang chiếu,
Do khủng tương phùng thị mộng trung.
Chú Thích:
1- Từ điệu Giá Cô Thiên của Án Kỷ Đạo gồm 55 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 3 bình vận
2- Phủng = bổng = nâng như nâng khay trà.
3- Thái = thải= mầu mè đẹp đẽ.
4- Biền khước = biện khước=cam nguyện, không tiếc.
5- Lâu tâm: tức là trên lầu. Cũng có thể hiểu Lâu tâm nguyệt = trăng chiếu vào giữa lầu=chỉ lúc nửa đêm.
Vũ đê dương liễu lâu tâm nguyệt舞低楊柳樓心月: tác giả không nói trăng chìm xuống mà nói khiêu vũ làm chìm trăng xuống.
6- Đào hoa phiến = cái quạt có vẽ hoa đào dùng trong lúc ca vũ. Phiến để: có thể hiểu là phiến ảnh.
7- Hồn mộng, bản khác chép Quy mộng歸夢 .
8- Ngân cang = ngân giang = cây đèn bằng bạc.
9- Thặng bả ngân cang= (chỉ chú ý việc)cầm cây đèn bạc.
Dịch Nghĩa:
Bài từ theo điệu giá cô thiên kỳ 1 của Án Kỷ Đạo
Tay áo mầu ân cần nâng chén ngọc,
Năm đó cam nguyện say đỏ mặt.
Khiêu vũ từ lúc trăng chiếu trên đỉnh cây liễu, chiếu vào giữa gian lầu cho đến lúc trăng chìm xuống.
Xướng ca cho đến lúc cái quạt hoa dùng trong lúc ca múa không còn lay động nữa.
(Tác giả nói tiếng ca làm ngưng gió của cái quạt hoa)
Từ sau khi ly biệt
Nhớ lúc gặp nhau
Mấy lần gặp nàng trong cơn mộng
Đêm nay cầm cây đèn bạc soi chiếu
(Gặp lại người xưa, cầm đèn soi rõ dung nhan)
Còn sợ gặp nhau là đang trong mộng.
[Hồ Hoàng Điệp]
Phỏng dịch:
Áo gấm ân cần nhẹ nâng chung
Năm xưa say khướt má môi hồng
Múa chìm dương liễu vào trăng úa
Ca ngắt gió lay chiếc quạt nồng
Sau ly biệt
nhớ trùng trùng
Bao phen mộng gặp khách tình chung
Đêm nay đèn bạc soi người cũ
Chẳng phải mộng mơ - thật tương phùng!
Lộc Bắc
2-GIÁ CÔ THIÊN - Chu Đôn Nho
鷓鴣天 - 朱敦儒
畫舫東時洛水清。
別離心緒若為情。
西風挹淚分攜後,
十夜長亭九夢君。
雲背水,
雁回汀。
只應芳草見離魂。
前回共采芙蓉處,
風自淒淒月自明。
Giá Cô Thiên - Chu Đôn Nho
Họa phảng đông thì lạc thủy thanh。
Biệt ly tâm tự nhược vi tình。
Tây phong ấp lệ phân huề hậu,
Thập dạ trường đình cửu mộng quân.
Vân bối thủy,
Nhạn hồi đinh。
Chỉ ưng phương thảo kiến ly hồn。
Tiền hồi cộng thải phù dung xứ,
Phong tự thê thê nguyệt tự minh.
Chú Thích
1- Từ điệu giá cô thiên có 55 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 3 bình vận
2- Đây là một bài từ tả tình, tưởng nhớ cố nhân. tác giả không nói cố nhân là nam hay nữ. Nhưng xem câu thơ” Tây phong ấp lệ”, “Phương thảo kiến ly hồn” thì cũng có thể đoán cố nhân là người nữ.
3- Họa phảng = thuyền được trang hoàng đẹp đẽ, chạm trổ, vẽ tranh..
4- Lạc Thủy洛水 = sông Lạc Thủy ở Hà Nam.
5- Nhược = như, nếu.)
6- Ấp 挹: múc nước, tát nước. Ấp lệ: do thành ngữ "Ấp lệ nhu si 挹淚揉眵 " = hình dung đau buồn rơi nước mắt. Một thành ngữ tương tự là "Mạt lệ nhu si 抹淚揉眵" = lau mắt gạt lệ.
7- Thập dạ trường đình: Bản khác chép: Thập niên trường đình cửu mộng quân 十年長 亭九夢君.
8- Vân bối thủy 雲背水= 雲背对着水 vân bối đối trước thủy = mây bay qua chiếu ảnh trên mặt nước.
9- Chỉ ưng 只應 : chỉ, chỉ có, chỉ nên; thí dụ: 此曲只應天上有 thử khúc chỉ ưng thiên thượng hữu (thơ Đỗ Phủ )= khúc (hát) này chỉ trên trời có = ám chỉ quá hay, hiếm có.
10- Phù dung 芙蓉: hoa sen; Thái = thải 采: hái.
Dịch nghĩa:
Bài từ theo điệu giá cô thiên của Chu Đôn Nho
Thuyền chạm trổ đi về hướng đông trên sông Lạc Thủy nước trong.
(Tưởng nhớ lúc đi chơi với tình nhân trên sông Lạc Thủy)
Tâm trạng biệt ly như là vì tình.
Trong gió tây gạt lệ sau khi chia tay.
Ở trường đình 10 đêm thì 9 đêm mơ thấy người
(Cũng có thể hiểu là:"Sau khi ở trường đình chia tay, 10 đêm thì 9 đêm mơ thấy người")
Mây chiếu trên mặt nước. Nhạn về bến sông. (Đinh 汀 = bãi sông, bến sông)
Chỉ có bãi cỏ thơm thấy cái hồn của sự ly biệt.
Nơi ngày xưa cùng hái hoa sen
(Chỉ thấy) gió tự vi vu, trăng tự sáng.
[Hồ Hoàng Điệp]
Phỏng dịch:
Hoa thuyền đông hướng nước sông xanh
Tâm trạng biệt ly khổ do tình
Gió Tây gạt lệ sau chia cách
Mười tối trường đình chín nhớ anh
Mây in nước
Nhạn bến sông
Cỏ thơm mới biết tái tê lòng
Làng sen thuở trước cùng nhau hái
Gió tự lê thê, trăng sáng trong
Lộc Bắc
3- GIÁ CÔ THIÊN , Hoàng Đình Kiên
鷓鴣天-黃庭堅
座中有眉山隱客史應之和前韻,即席答之
黃菊枝頭生曉寒。
人生莫放酒杯乾
風前橫笛斜吹雨,
醉里簪花倒著冠。
身健在,
且加餐。
舞裙歌板盡清歡
黃花白髮相牽挽,
付與時人冷眼看。
Giá Cô Thiên - Hoàng Đình Kiên
Tọa trung hữu Mi Sơn Ẩn Khách Sử Ứng Chi họa tiền vận, tức tịch đáp chi.
Hoàng cúc chi đầu sinh hiểu hàn,
Nhân sinh mạc phóng tửu bôi can.
Phong tiền hoành địch tà xuy vũ,
Túy lý trâm hoa đảo trước quan.
Thân kiện tại,
thả gia xan.
Vũ quần ca bản tận thanh hoan.
Hoàng hoa bạch phát tương khiên vãn,
Phó dữ thời nhân lãnh nhãn khan.
Chú Thích
1- Hoàng Đình Kiên 黃庭堅: đỗ Tiến sĩ, tự Lỗ Trực 鲁直, hiệu Sơn Cốc Đạo nhân 山谷道人, Người Hồng Châu Phân Ninh 洪州分宁 nay thuộc tỉnh Giang Tây, trấn Cửu Giang, Huyện Tu Thủy 修水, TH. Ông là nhà văn học, thư pháp có danh tiếng đời Bắc Tống. . Bài thơ này được làm khi Hoàng Đình Kiên bị cách quan, an trí tại Tứ Xuyên.
2- Sử Ứng Chi 史應之: khách họa thơ với Hoàng Đình Kiên.
3- Mạc phóng 莫放: chớ để.
4- Trâm hoa 簪花: hoa cài lên đầu làm trang sức gồm hoa thật, hoa giả, hoa bằng tơ, lụa, vải, vàng, bạc, ngọc...
5- Đảo Trước quan 倒著冠: lật ngược cái mũ.
6- Gia xan 加餐: thêm cơm.
7- Vũ quần 舞裙: váy mặc lúc ca múa, = vũ y. Ca bản 歌板: một loại nhạc khí dùng để nhịp phách.
8- Thanh hoan 清歡: thanh đạm hoan du 清淡的歡愉=vui sướng nhẹ nhàng thanh đạm.
8- Hoàng hoa bạch phát 黃花白髮: Hoa vàng và tóc trắng. Bạch phát chỉ tác giả. Hoàng hoa tức là hoa cúc nở vào mùa thu trong lúc các hoa khác tàn hết cho nên có câu hoàng hoa vãn tiết 黃花晚節 ví hoa cúc như tiết tháo kiên cường của người già. Với câu này tác giả có vẻ cao ngạo vì tiết tháo của mình lúc tuổi già tuy bị biếm quan. Ngoài ra Hoàng hoa còn ám chỉ người vị thành niên và Bạch Phát chỉ người già.
9- Khiên vãn 牽挽: khiên lạp = lôi kéo, khiên triền: quấn quít.
10- Phó dữ 付與: để cho, cấp cho.
11- Thời nhân 時人: người đời, người đương thời.
12- Lãnh nhãn 冷眼: ánh mắt lạnh lùng khinh miệt.
Dịch Nghĩa
Bài từ theo điệu Giá cô thiên của Hoàng Đình Kiên
(Ghi chú của tác giả)
Ngồi trong có người ẩn khách đất Mi sơn Sử Ứng Chi, họa thơ theo vận của bài trước, ngay trong bữa tiệc đáp lại.
Đầu nhánh hoa hoàng cúc sinh vẻ lạnh ban mai.
Đời người chớ để chén rượu vơi.
Trước gió cầm cây sáo ngang thổi lúc trời mưa.
Trong cơn say cắm hoa lên đầu, đội mũ đảo ngược.
Thân thể khang kiện
nên ăn thêm cơm,
Áo múa, cái phách (đánh nhịp), tận hưởng niềm vui thanh đạm.
Hoa vàng (cắm trên đầu) và tóc trắng xoắn xuýt với nhau.
Cũng có thể hiểu là: Người trẻ và người già dắt nhau, quấn quít với nhau.
Mặc cho người đời nhìn với ánh mắt lạnh lùng (khinh người).
[Hồ Hoàng Điệp]
Phỏng dịch:
Hoàng cúc đầu cành lạnh sớm mai
Đời người rượu chớ để ly vơi
Trước gió sáo nâng mưa chéo thổi
Ngà say trâm dắt mũ nghiêng chơi
Thân khỏe mạnh
Thêm cơm thôi
Áo múa, phách reo tận hưởng vui
Hoa vàng, tóc bạc cùng quay quắt
Bất kể nhân gian mắt trắng soi.
Lộc Bắc
4- GIÁ CÔ THIÊN - Tân Khí Tật
鷓鴣天 - 辛棄疾
壯歲旌旗擁萬夫
錦襜突騎渡江初
燕兵夜娖銀胡 轆..
漢箭朝飛金僕姑
追往事
嘆今吾
春風不染白髭鬚
卻將萬字平戎策
換得東家種樹書
Giá Cô Thiên - Tân Khí Tật
Tráng tuế tinh kì ủng vạn phu
Cẩm xiêm đột kị độ giang sơ
Yên binh dạ xúc ngân Hồ lộc
Hán tiễn triêu phi kim bộc cô
Truy vãng sự
Thán kim ngô
Xuân phong bất nhiễm bạch tì tu
Khước tương vạn tự bình Nhung sách
Hoán đắc đông gia chủng thụ thư
Chú thích
- Tráng tuế tinh kì ủng vạn phu 壯歲旌旗擁萬夫: chỉ việc tác giả lãnh đạo quân khởi nghĩa kháng Kim, lúc bấy giờ vừa mới 20 tuổi. Trong Tiến mĩ cần thập luận tử 進美芹十論子 ông viết rằng:
Thần thường cưu chúng nhị thiên, lệ Cảnh Kinh, vi chưởng thư kí,dữ đồ khôi phục, cộng tịch binh nhị thập ngũ vạn, nạp khoản ư triều.
臣嘗鳩眾二千, 隸耿京, 為掌書記, 與圖恢服, 共藉兵二十五萬, 納款於朝.
(Thần từng quy tụ hai ngàn người, theo Cảnh Kinh, làm thư kí, cùng mưu đồ khôi phục, cộng thêm binh mượn 25 vạn, sẽ quy thuận triều đình)
- Cẩm xiêm đột kị độ giang sơ 錦襜突騎渡江初: chỉ việc tác giả trước khi về nam đã thống lĩnh quân đội chiến đấu cùng kẻ địch.
Cẩm xiêm đột kị 錦襜突騎: tức cẩm y kị binh tinh nhuệ.
Xiêm 襜: chiến bào. Áo che phía trước ngực gọi là “xiêm”.
- Hai câu “Yên binh ...” : thuật lại tình huống quân Tống chuẩn bị xạ kích quân địch.
Xúc 娖: có nghĩa là chỉnh lí.
Ngân Hồ lộc 銀胡 ... : túi đựng tên có màu bạc hoặc nạm bạc.
Kim bộc cô 金僕姑: tên gọi mũi tên.
- Bình Nhung sách 平戎策: sách lược bình định kẻ xâm nhập lúc bấy giờ, như Mĩ cần thập luận 美芹十論, Cửu nghị 九議 ...
- Chủng thụ thư 種樹書: (sách dạy trồng cây – ND) biểu thị ý lui về quê nhà làm ruộng.
Dịch nghĩa
Khi ta còn trẻ đã thống lĩnh hơn một vạn sĩ binh
Đội kị binh tinh nhuệ vượt qua Trường giang
Quân Kim buổi tối chuẩn bị túi tên
Quân Hán vừa mới sáng sớm đã hướng đến quân địch bắn tên kim bộc cô
Nhớ lại việc đã qua
Than cho ta hiện tại
Gió xuân không thể làm cho râu trắng của ta đen trở lại
Đem bộ sách lược bình định quân Kim dài gần vạn chữ
Đổi lấy sách dạy trồng cây cho người bên nhà phía đông.
[Internet]
Phỏng dịch:
Tuổi trẻ dựng cờ nắm vạn quân
Tinh binh kỵ mã vượt sông tuần
Lính Yên tối soạn bao cung tiễn
Tên Hán sớm bay mũi nhọn vàng
Nhớ chuyện cũ
Cất lời than
Râu trắng hoàn đen… bởi gió xuân!?
Binh thư vạn chữ trừ quân giặc
đổi sách trồng cây khách đông lân.
Lộc Bắc
2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét