Thứ Bảy, 22 tháng 7, 2023

Lãng Đào Sa Kỳ 3 浪淘沙其三 - Lưu Vũ Tích (Trung Đường) Từ


Lưu Vũ Tích 劉禹錫 (772-842) tự Mộng Đắc 夢得, người Bành Thành (nay là huyện Đông Sơn, tỉnh Giang Tô) đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 9 (793), làm giám sát ngự sử đời Đức Tông. Thời Thuận Tông cùng tham dự vào những chủ trương chính trị tiến bộ cùng Vương Thúc Văn, Liễu Tông Nguyên, sau Vương Thúc Văn bị bọn cường quyền gièm pha, ông cũng bị đổi thành Lãng Châu thứ sử. Ông làm từ hay dùng tục ngữ địa phương, Bạch Cư Dị từng gọi ông là thi hào. Tác phẩm có Lưu Vũ Tích tập.

Nguyên tác Dịch âm

浪淘沙其三 Lãng Đào Sa Kỳ 3

汴水東流虎眼紋 Biện thuỷ đông lưu hổ nhãn văn,
清淮曉色鴨頭春 Thanh Hoài hiểu sắc áp đầu xuân.
君看渡口淘沙處 Quân khan độ khẩu đào sa xứ,
渡卻人間多少人 Độ khước nhân gian đa thiểu nhân.


Chú giải

虎眼紋 hổ nhãn văn: vằn trên mắt hổ.
鴨頭 Áp đầu: đầu con vịt.
渡口 độ khẩu: vượt cửa sông.
淘 đào: sàng, rửa, đãi.

Dịch nghĩa

Sông Biện chảy về đông lăn tăn như vằn mắt hổ,
Màu sông Hoài buổi sáng mùa xuân xanh như đầu vịt.
Anh thấy người ta đãi cát ở cửa sông kia,
Đã giúp việc cho nhân gian ít nhiều người

Dịch từ

Lãng đào sa kỳ 3

Sóng Biện trôi như mắt hổ vằn,
Sông Hoài sáng sớm giống đầu ngan.
Thử coi đãi cát bờ sông nhé,
Đã giúp nhân gian kiếm việc làm.

Lời bàn:

Cách diễn tả của Lưu Vũ Tích trong bài từ Lãng đào sa kỳ 3 rất độc đáo: sóng sông Biện (giống mắt hổ vằn) và màu sông Hoài (giống đầu ngan) đẹp một cách kỳ quặc; hai câu 3 & 4 còn quan tâm tới nền kinh tế địa phương nữa (giúp cho một số người có công ăn việc làm).

Con Cò
***
Lãng Đào Sa kỳ 3.

Mắt hùm sóng Biện hướng đông trôi,
Đầu vịt sông Hoài sắc sớm trời.
Bãi khẩu chàng xem miền đãi cát,
Giúp dân kiếm việc ít nhiều người.

Mỹ Ngọc
July 14/2023.
***
Cảnh Quan Nhân Thế

Hướng đông, Biện thủy lăn tăn,
Tựa vằn mắt hổ chốn ngàn lũng sâu.
Thanh Hoài xuân thắm dãi dầu,
Sớm mai xanh biếc như đầu vịt ngan.
Bao người nhóm tụ lớp hàng,
Mãi mê ray đãi cát vàng cửa sông.
Góp phần tạo việc làm công,
Sanh nhai mưu kế - thỏa lòng nhân gian.

Khánh-Hưng
***
Đây là một bài từ mà giống hệt một bài thất ngôn tứ tuyệt.

Cám ơn ÔC và anh Tâm đã giải thích rõ ràng, nhờ vậy tôi mới biết sông Biện chính là Đại Vận Hà mà Dương Quảng đã bắt dân đào để đi thuyền xuống nam coi hoa Quỳnh. Nhưng nhờ sông đào này mà việc thông thương nam, bắc được dễ dàng, kinh tế phát triển..

Lãng Đào Sa Kỳ 3

Nước Biện xuôi đông, vằn mắt hổ,
Sông Hoài đầu vịt ngát mầu xuân,
Anh ngắm cửa sông, nơi đãi cát,
Đã giúp bao người được ấm thân.

Bát Sách.
***
Lãng Đào Sa Kỳ 3

1-

Dòng Biện xuôi đông mắt hổ vằn
Nước Hoài cổ vịt biếc mầu xuân
Anh trông đãi cát vàm sông đó
Tạo việc ít nhiều giúp thế nhân!

2-

Mắt cọp vằn xuôi đông Biện thủy
Cổ biếc xanh vịt quý sớm xuân
Kìa anh, đãi cát vàm gần
Ít nhiều giúp đỡ thế nhân việc làm!

Lộc Bắc
Jun23
***
Nguyên tác: Phiên âm:

浪淘沙其三-劉禹錫 Lãng Đào Sa Kỳ 3 – Lưu Vũ Tích

汴水東流虎眼紋 Biện thủy đông lưu hổ nhãn văn
清淮曉色鴨頭春 Thanh Hoài hiểu sắc áp đầu xuân
君看渡口淘沙處 Quân khan độ khẩu đào sa xứ
渡卻人間多少人 Độ khước nhân gian đa thiểu nhân

Sách có mộc bản bài từ/thơ:

Lưu Tân Khách Văn Tập - Đường - Lưu Vũ Tích 劉賓客文集-唐-劉禹錫
Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 樂府詩集-宋-郭茂倩
Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句-宋-洪邁
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁

Hai sách đầu dùng chữ khước 卻 trong câu 4, hai sách sau dùng chữ tức却. Hai chữ là dị dạng của nhau nên cùng nghĩa.


Bài từ này của Lưu Vũ Tích thuộc điệu Lãng Đào Sa bình vận cách nhất trắc khởi (tương đương với Thất Ngôn Tứ Tuyệt luật trắc). Theo Long phổ, các chữ trong bài trắc khởi phải có thanh và vần như sau:


Thanh luật của bài từ luôn luôn chặt chẽ hơn thanh luật của thơ tứ tuyệt Đường luật vì biệt lệ nhất tam ngũ áp dụng cho bài tứ tuyệt, nhưng không nhất thiết lúc nào cũng áp dụng cho bài từ. Do đó một bài từ như Lãng Đào Sa Kỳ 3 là một bài tứ tuyệt hoàn chỉnh về niêm vận thơ Đường luật, nhưng lại không đúng 100% niêm vận cũng là một bài từ Lãng Đào Sa. Chữ đa trong câu 4 phải là thanh trắc cho bài từ.

Ghi chú:

Biện thủy: sông Biện là khúc kênh đào vào đời nhà Tùy, bắt đầu từ huyện Huỳnh Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay, chảy về phía đông qua An Huy, đến Giang Tô vào sông Hoài.
Hổ nhãn văn: vằn mắt hổ, chỉ nước xoáy gợn sóng
Thanh Hoài: tên gọi chung của Thanh Giang và Hoài Thành, ngày nay là thành phố Hoài An, tỉnh Giang Tô. Thanh Giang là quận Thanh Phố, quận Thanh Hà của thành phố Hoài An ngày nay, Hoài Thành là quận Sở Châu của thành phố Hoài An ngày nay; sông Hoài
Áp đầu: đầu con vịt
Áp đầu xuân: thời Đường gọi màu xanh lá cây đầu vịt, hình dung màu nước mùa xuân
Hiểu sắc: sắc trời lúc bình minh
Đào sa: đãi rửa sạch cát để tìm vàng

Bối cảnh:

Bải thơ này được làm ở Trùng Khánh, có nói đến Biện Thủy và Thanh Hoài nơi Lưu Vũ Tích từng nhậm chức thứ sử Hòa Châu vào năm Trường Khánh (năm 824). Hòa Châu phía bắc giáp lưu vực sông Hoài nay là Hòa Huyện, An Huy.

Giống như nhiều bài thơ khác, bài này của LVT cũng có tích cách hoài cổ và vịnh sử, cho thấy nhân thế tang thương và lịch sử vô tình. Tình cảm cổ xưa và hiện tại của nhà thơ, cảm giác thăng trầm của lịch sử được khơi dậy từ dòng sông Biện trước mắt.

Năm 60x?, Tùy Dương Đế, một vị vua sa đọa và phung phí nhất của đời nhà Tùy, chỉ vì muốn du ngoạn Giang Đô, đã huy động hơn trăm ngàn dân công đào kênh Biện Thủy. Trên bờ đê trồng liễu và xây hành cung xa hoa để vua cùng cung nữ đến thả thuyền chơi trên sông. Dân chúng phải chịu muôn ngàn khổ cực và đưa đến sự diệt vong của nhà Tùy. Dương Đế, tên thật là Dương Quảng, sinh năm 569, mất năm 618 vì bị tướng chỉ huy cấm quân là Vũ Văn Hoá giết chết ở Giang Đô, hưởng dương 49 tuổi, ở ngôi được14 năm.

Dịch nghĩa:

Lãng Đào Sa

Biện thủy đông lưu hổ nhãn văn  Sông Biện chảy về đông lăn tăn xoáy gợn sóng,
Thanh Hoài hiểu sắc áp đầu xuân Qua vùng Thanh Hoài lúc bình mình màu nước xanh như nước xuân.
Quân khan độ khẩu đào sa xứ      Bạn có thấy người ta đãi cát ở cửa sông,
Độ khước nhân gian đa thiểu nhân Đã cứu giúp một ít người trong thế gian.

Song of Washing Sand 3 by Liu Yu Xi

Bienshui river flows east in tiger’s eye patterns,
Through Qing Huai area in early morning, the water is green as spring water.
Do you see people washing sand at the river mouth (to find gold),
A few people are helped (making a living) that way.

Điền từ/Dịch thơ:


Phí Minh Tâm

1 nhận xét: