Thứ Hai, 26 tháng 12, 2022

Đoan Cư 端居 - Lý Thương Ẩn


Lời phi lộ

Lý Thương Ẩn là thi hào làm nhiều thơ nhớ vợ nhất thời Đường vì ông suốt đời sống xa vợ:
- Xa vợ trong thời gian thi cử (ông thi rớt nhiều lần, không phải vì làm bài dở mà vì giám khảo ganh tài, đánh rớt ông).
- Xa vợ trong thời gian làm việc (ông chỉ là một thư lại quèn, lương bổng thấp nên vợ phải dệt cửi ở quê nhà để nuôi con và may áo ấm cho chồng).
- Xa vợ trong thời gian bị thuyên chuyển (có lần bị thuyên chuyển từ Kinh Đô tới tận đất Thục).

Thơ nhớ vợ của ông rất sâu sắc, ít khi đoán trước được ý thơ của ông qua đầu đề của bài thơ. Bài Đoan Cư là một thí dụ.

Nguyên tác         Dịch âm

端居                    Đoan Cư

遠書歸夢兩悠悠 Viễn thư quy mộng lưỡng du du (dâu dâu)
只有空床故素秋 Chỉ hữu không sàng cố tố thu (thâu).
階下青臺與紅樹 Giai hạ thanh đài dữ hồng thụ,
雨中寥落月中愁 Vũ trung liêu lạc nguyệt trung sầu.

Tố thu: Theo thuyết ngũ hành thì đông, hạ, xuân, thu và tháng cuối mỗi mùa tương ứng lần lượt tới Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ và đen, đỏ, xanh, trắng, vàng. Mùa Thu vì vậy tương ứng với Kim và trắng. Tố là trắng, vì vậy nói là “tố thu”

Dịch nghĩa

Nhàn Cư

Tin thư xa, mộng về quê nhà đều mờ tỏ.
Chỉ có cái giường trống không đối diện cùng mùa thu thê lương.
Ngoài thềm đá, một màu rêu biếc và sắc đỏ của những cành phong ánh vào.
Trong mưa thì cảnh vắng vẻ tịch mịch, dưới trăng thì cảnh lại sầu thảm.

Dịch thơ

Nhàn Cư

Mộng về, thư tới vẫn đâu đâu.
Chỉ có thu buồn giường vắng nhau.
Thềm đá: rêu xanh in phong đỏ.
Dưới mưa: hiu quạnh; dưới trăng: sầu ./.

Chú giải: Đoan cư: cảnh sống nhàn rỗi. Bài thơ làm khi tác giả ở nơi đất khách, nhớ gia đình, vợ con.

Lời bàn: 

Một bài thơ vô cùng cảm động.
Câu 1: Thư từ xa (thư do vợ gửi) vẫn không thấy. Mộng về nhà thì mong manh.
Câu 2: Quanh năm chỉ thấy thu buồn và giường vắng em.
Cău 3: Cảnh vật thì chỉ có phong đỏ in trên rêu xanh.
Câu 4: Ban đêm (mỗi đêm), khi mưa thì thấy hiu quạnh mà khi trăng sáng cũng chỉ thấy buồn. Chả có tí ti lạc thú nào cả.

Chỉ có 28 chữ mà hầu như tóm thâu hết nỗi buồn của trời đất vào một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Nếu có ai hỏi thất ngôn tứ tuyệt là gì thì chả cần giải nghĩa loanh quanh cho rườm rà; cứ chầm chậm ngâm bài thơ nguyên tác này lên là xong.

Muốn dịch cho gãy gọn và đủ nghĩa bài thất ngôn tứ tuyệt này ra nguyên thể thì nên dùng chữ Quốc Ngữ [có các dấu chấm (.) phẩy (,) chấm phẩy (;) và hai chấm (:) ] thay vì dùng chữ Nôm (không có các dấu kể trên). Con Cò đã dùng 4 dấu chấm (.) cho 4 câu vì ý của chúng độc lập với nhau. Một dấu phẩy (,) ở giữa câu 1. Một dấu hai chấm (:) ở giữa câu 3. Một dấu chấm phẩy (;) ở giữa câu 4 để cắt câu này thành hai mệnh đề và một dấu hai chấm (:) cho mỗi mệnh đề. (Thí dụ này cho thấy chữ Quốc Ngữ cỡi cổ chữ nôm).

Bây giờ xin tán rộng về hai cụm từ nhàn cư và mùa thu của bài này:

- Tại sao lại lấy đầu đề nhàn cư để diễn đạt lòng nhớ vợ?  Lý Thương Ẩn thường dùng những đầu đề lắt léo như vậy để dẫn tư tưởng của độc giả đi loanh quanh hồi lâu trước khi đột nhập vào trọng tâm của đề tài. Là một thư ký quèn, ông bận rộn với mớ văn thư tạp nham suốt ngày. Khi làm việc thì phải để hết tâm trí vào công việc, nỗi nhớ không có chỗ đứng trong đầu. Khi nhàn rỗi thì nỗi nhớ ập tới.

- Tại sao lại dùng mùa Thu làm nền cho nỗi nhớ? Đây cũng là một ẩn ý của họ Lý? Ông để tuổi tác của mình ẩn nấp trong mùa thu. Tới mùa Thu là sắp tới cuối năm (ví với cuối đời). Dáng thu vàng úa (tóc phai màu), gió thu hiu hiu (chân đã mỏi), khí thu mờ (mắt đã kém). Nắng cũng đang nhạt dần (đời sắp tàn). Lúc đó mà công danh còn lận đận thì ắt nhớ thương vợ nhiều lắm lắm. Thời đó, 50 là tuổi thọ; ông mất ở tuổi 45 và góa vợ lúc 40; có lẽ bài thơ này làm lúc ông gần tới 40t.

Còn nữa, âm hưởng của bài thơ buồn não nuột; bài dịch cố gắng dịch cái âm buồn đó. Buồn muốn chết nhưng hay tàn bạo.

Con Cò
***
Các Bài Dịch Khác:
Nhàn Cư

Đường về thư tín vẫn xa mù,
Chỉ thấy giường không ảm đạm thu.
Bậc đá rêu xanh cây lá đỏ,
Trăng sầu mưa thảm cảnh âm u.

Mỹ Ngọc 
Sept. 23/2022.
***
Lúc Nhàn

Mộng về, thư đợi mãi nơi đâu
Giường trống nỗi niềm thu trắng phau
Rêu lục trên thềm cây lá đỏ
Trong mưa quạnh quẽ, dưới trăng sầu

Lộc Bắc
Dec22
***
Buồn Đơn Côi

Trông tin phối ngẫu chốn quê nhà
Gối chiếc giường đơn thu lạnh xa
Thềm đá rêu xanh phong lá đỏ
Mưa rơi hiu hắt rọi trăng ngà

Thanh Vân
***

Đây là một bài thơ rất hay, buồn man mác của Lý Thương Ẩn. ÔC đã viết nhiều rồi, và BS cũng đồng ý, bài này nói về nỗi nhớ quê, nhớ vợ, khi Lý phải đi làm quan ở xa. Vợ Lý là Vương Yến Mỹ, con Dương Mậu Nguyên, một người đẹp, hiền thục, hoà nhã, rất yêu chồng, tình đôi lứa vô cùng thắm thiết, nên khi vợ chết, Lý không tục huyền, ở vậy suốt đời.

Những khi nhàn rỗi thì Lý nhớ quê vời vợi, muốn về không được, mong thư nhà thì chẳng thấy tăm hơi, chỉ một mình một bóng với chiếc giường không trong trời thu lạnh lẽo ..Trước thềm, đầy rêu xanh và lá đỏ, nên lúc nào cũng buồn, dù khi trời mưa hay dưới ánh trăng…

BS vẫn thắc mắc về chữ ĐOAN, viết với bộ lập: Thi Viện thì giảng đoan cư là cảnh sống nhàn rỗi, nhưng cuốn tự điển gối đầu giường của BS do Nguyễn Tôn Nhan soạn thì không thấy nói gì về nhàn cả. Và bài thơ cũng chẳng thấy nhàn chút nào. 

Mộng về dằng dặc, chẳng thư nhà,
Chỉ có giường không, thu thiết tha,
Thềm phủ rêu xanh cùng lá đỏ,
Tịch mịch dù mưa hoặc nguyệt tà.

Bát Sách.
(ngày 25 tháng 09 năm 2022)

***
Nguyên bản:     Phiên âm:

端居 - 李商隱 Đoan Cư · Lý Thương Ẩn

遠書歸夢兩悠悠 Viễn thư quy mộng lưỡng du du
隻有空牀敵素秋 Chỉ hữu không sàng địch tố thu
堦下青苔與紅樹 Giai hạ thanh đài dữ hồng thụ
雨中寥落月中愁 Vũ trung liêu lạc nguyệt trung sầu
 

Tất cả mộc bản của bài thơ viết chữ 5 câu 2 là 敵địch. Khi in sách thay vì xài chữ phồn thể 敵địch, họ lại xài chữ giản thể 敌địch. Thi viện chép sai chữ 敌địch thành chữ 故cố (mất đầu) và dĩ nhiên phiên âm sai. Chữ cố故không có nghĩa gì trong câu, nhưng lại được Thi viện dịch nghĩa đúng mới lạ.

Sách khắc đăng bài thơ:

Lý Nghĩa San Thi Tập Chú - Đường - Lý Thương Ẩn 李義山詩集注-唐-李商隱
Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句-宋-洪邁
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi chú:

đoan cư: bình cư, an cư, sống bình thường
viễn thư: thư được gởi đi xa hay đến từ xa
quy mộng: giấc mơ trở về nhà
du du: rộng lớn vô tận, xa xôi, một thời gian dài
chỉ hữu: chỉ có, điều kiện cần thiết
không sàng: giường ngủ một mình, chỗ ngồi trống
tố thu: mùa thu, thu trắng theo ngũ hành
thanh đài: rêu
hồng thụ: cây đỏ lá
liêu lạc: thưa thớt, vắng vẻ
nguyệt trung: trong ánh trăng, dưới ánh trăng

Dịch nghĩa:

Đoan Cư Sống Bình Thường

Viễn thư quy mộng lưỡng du du Thư nhà hiếm có, mộng về nhà cũng xa xôi mù mịt,
Chỉ hữu không sàng địch tố thu Chỉ có chiếc giường trống đối diện với mùa thu thê lương.
Giai hạ thanh đài dữ hồng thụ Dưới thềm đá, rêu xanh biếc tương phản màu đỏ lá phong,
Vũ trung liêu lạc nguyệt trung sầu Trong mưa thưa thớt vắng vẻ và dưới ánh trăng, cảnh thảm sầu.

Đã lâu rồi không nhận được tin tức từ gia đình thư của người vợ thương yêu. Chỉ trong giấc ngủ mới được trở về quê để vơi đi nỗi nhớ. Nhưng nửa đêm tỉnh dậy chợt nhận ra chia tay vi nàng đã mấy năm rồi, nhìn quanh chỉ thấy chiếc giường trống trải đối diện với đêm thu hoang vắng lạnh lẽo.

Sống một mình nơi đất khách quê người, ít bạn qua lại nên bậc thềm trước nhà phủ đầy rêu xanh, trong khi hàng cây sau nhà đã đỏ lá. Dưới làn mưa phùn như sương, ánh trăng đêm hoang vắng càng thêm mờ ảo âu sầu.

Dịch thơ:

Đêm Thu Xa Nhà

Thư vắng, nhớ nàng mộng mịt mù,
Chiếu giường trống vắng đã bao thu?
Rêu xanh thềm đá lá phong đỏ,
Mưa lạnh trăng sầu đời viễn du.

Usual Life by Li Shang Yin

Letter from wife is rare and dream of going home fails to come true,
The empty bed is facing the forlorn white autumn.
The step stone outside is covered with green moss while the maple turns red,
In the misty rain, the moon light spreads melancholy and desolation.

Phí Minh Tâm 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét