Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2020

Dạ Tọa 夜坐


A- Dạ Tọa của Lộ Tuần Mỹ 路洵美

夜坐                 Dạ Tọa

簾捲竹軒清, Liêm quyển trúc hiên thanh,
四鄰無語聲。 Tứ lân vô ngữ thanh (thinh).
漏從吟裡轉, Lậu tòng ngâm lý chuyển,
月自坐來明。 Nguyệt tự tọa lai minh.
草木露華濕, Thảo mộc lộ hoa thấp,
衣裳寒氣生。 Y thường hàn khí sinh.
難逢知鑑者, Nan phùng tri giám giả,
空悅此時情。 Không duyệt thử thời tình!

路洵美             Lộ Tuần Mỹ

***
* Chú Thích:
Lộ Tuần Mỹ 路洵美 người đất Quan Huyện tỉnh Sơn Đông, là thi nhân thời Sơ Đường, cháu ba đời của Tể Tướng Lộ Nham; ông cũng từng giữ chức Tể Tướng. Sau vì bệnh nên từ chức và mất ở quê nhà. Trong "Toàn Đường Thi Tập" duy nhất còn lưu lại chỉ có một bài thơ nầy mà thôi.
- Thanh 清: Có 3 chấm Thủy 氵bên trái nên nghĩa là Trong, ở đây chỉ "Thanh Vắng".
- Thanh 聲: Có chữ Nhĩ 耳 là Tai bên dưới, nên có nghĩa là "Âm Thanh". Còn được đọc là THINH, như trong Ca dao Nam bộ : " Văn kỳ THINH bất kiến kỳ hình, Bấy lâu nay cách mặt nhưng tình chửa cam !".
- Tứ Lân 四鄰: là Nhà lối xóm ở bốn bên.
- Lậu 漏 : là Rỉ, là nhỏ giọt, ở đây chỉ tiếng nước nhỏ giọt của đồng hồ ngày xưa dùng để tính thời gian. Ta hay nghe câu: "Đêm khuya khắc LẬU canh tàn".
- Tri Giám 知鑑 : GIÁM là Gương soi bằng kim loại ngày xưa; nên TRI GIÁM là hiểu biết tường tận như soi gương vậy. Trong bài thơ TRI GIÁM GIẢ là Người hiểu thấu chia xẻ được với ta.
- Không Duyệt 空悅 : Niềm vui khơi khơi, không người để chia xẻ.

Nghĩa Bài Thơ:
Ngồi Trong Đêm

Cuốn rèm lên nhìn ra cái mái hiên bằng tre vắng vẻ thanh tịnh, Lối xóm bốn bề đều im phăng phắc không một tiếng động. Duy chỉ tiếng nước đồng hồ nhỏ giọt như tiếng ngâm nga đưa đến, và ánh trăng cũng như sáng hơn ra từ khi ta ngồi đây. Cây cỏ đã thấm ướt sương đêm và áo quần của ta cũng nhuốm hơi lạnh lẽo. Khó mà gặp được người nào đó cùng chia xẻ với ta, nên ta chỉ vui có một mình trong tình huống nên thơ của đêm thanh vắng nầy mà thôi!

Diện Nôm:
Dạ Tọa

Cuốn rèm hiên trúc vắng tanh,
Bốn bề lối xóm lặng thinh tiếng người.
Đồng hồ nhỏ giọt ru hời,
Vầng trăng vằng vặc như ngồi quanh ta.
Cỏ cây sương ướt la đà,
Áo quần thấm lạnh đâu là tri âm.
Biết ai thấu tỏ nỗi lòng,
Trong đêm thanh vắng tuyệt không người cùng!

Đỗ Chiêu Đức

B - DẠ TỌA của Đường Ngạn Khiêm 唐彥謙

夜坐                 Dạ Tọa

愁鬢丁年白, Sầu mấn đinh niên bạch,
寒燈丙夜青。 Hàn đăng bính dạ thanh.
不眠驚戍鼓, Bất miên kinh thú cổ,
久客厭郵鈴。 Cửu khách yếm bưu linh.
洶洶城噴海, Hung hung thành phún hải,
疏疏屋漏星。 Sơ sơ ốc lậu tinh.
十年窮父子, Thập niên cùng phụ tử,
相守慰飄零。 Tương thủ ủy phiêu linh.

唐彥謙             Đường Ngạn Khiêm

Chú Thích:
- ĐƯỜNG NGẠN KHIÊM 唐彥謙(?~893) tự là Mậu Nghiệp, hiệu là Lộc Môn Tiên Sinh, người đất Tinh Châu, Tấn Dương (thuộc tỉnh Sơn Tây Thái Nguyên ngày nay). Ông đậu tiến sĩ năm Đường Hàm Thông thứ hai (861). Sau binh biến của năm Càn Phù, ông lánh nạn vào đất Hán Nam theo Vương Trọng Vinh làm Tòng sự, rồi làm Phó Tiết Độ Sứ, Thứ Sử hai châu Tấn, Giáng. Sau Vương mất, ông theo Dương Thủ Lượng giữ chức Phán Quan, rồi thăng dần lên thành Hưng Nguyên Tiết Độ Sứ. Về già ẩn cư ở Lộc Môn Sơn, chuyên trứ tác và làm thơ. Năm Phước Cảnh thứ 2 Đường Chiêu Tông, ông mất ở Hán Trung. 
- Đinh Niên 丁年 : là tuổi trở thành tráng đinh, phải đi lính. Tùy theo triều đại quy định, ĐINH NIÊN có thể là từ tuổi 16, 17, 18, 19 hay 20.
- Bính Dạ 丙夜: là Nửa đêm, giờ Tý canh ba.
- Thú Cổ 戍鼓: là Tiếng trống của người lính thú đánh cầm canh.
- Bưu Linh 郵鈴: là Tiếng lục lạc của người phát thư báo hiệu có thư gởi đến.
- Hung Hung 洶洶 : là Cuồn cuộn, sầm sập.
- Sơ Sơ 疏疏: là Thưa thớt, lẻ loi.
- Ủy 慰: là An ủi, là Nói lời thông cảm động viên, như ỦY LẠO...

Nghĩa bài Thơ:
Ngồi Trong Đêm

Vì lo buồn nên mới tuổi thành niên mà tóc mai đã ngã bạc, ngọn đèn lạnh vào lúc nửa đêm như xanh hơn lên. Không ngủ được vì giật mình bởi tiếng trống điểm canh của những người lính thú, ở nơi đất khách lâu ngày nên cũng đã chán nghe tiếng rung chuông của người phát thư khi đi đến (Vì mình có nhận được thư bao giờ đâu!). Tiếng sóng biển vẫn vổ ầm ì ở phía ngoại thành, và vì mái nhà dột nên trông lên thấy thấp thoáng những ánh sao trời. Cha con cùng nghèo khổ suốt mười năm nay, sống nương tựa và an ủi nhau trong cảnh lang thang trôi nổi ! 

Diễn Nôm:
Dạ Tọa

Tóc mai bạc trắng tuổi xanh,
Nửa khuya đèn lạnh đêm thanh mơ màng.
Giật mình trống điểm canh tàn,
Buồn nghe tiếng lạc đưa sang thư người.
Ngoại thành sóng vổ biển khơi,
Nhà tranh mái dột sao trời lưa thưa.
Mười năm phụ tử muối dưa,
Có nhau hôm sớm nắng mưa phiêu bồng!

Đỗ Chiêu Đức

C- DẠ TỌA của Trương Lỗi 張耒 (Tống)

夜坐                         DẠ TỌA

庭戶無人秋月明, Đình hộ vô nhân thu nguyệt minh,
夜霜欲落氣先清。 Dạ sương dục lạc khí tiên thanh.
梧桐真不甘衰謝, Ngô đồng chơn bất cam suy tạ,
數葉迎風尚有聲。 Sổ diệp nghinh phong thượng hữu thanh.

張耒                         Trương Lỗi

Chú Thích :

TRƯƠNG LỖI 張耒 là thi nhân và nhà văn học dưới thời Bắc Tống. Lúc nhỏ du học ở đất Trần, theo học với Tô Thức (Tô Đông Pha), rất được học quan là Tô Triệt (em của Tô Đông Pha) xem trọng. Ông nổi tiếng là một trong Tô môn Tứ Đại Học Sĩ (Bốn Học Sĩ giỏi nhất trong nhà họ Tô). Thơ ông làm có phong vị của Bạch Cư Dị và Trương Tịch của đời Đường. Ông cũng để lại rất nhiều thi và từ trong "Toàn Tống Thi" và "Toàn Tống Từ". 
- Đình Hộ 庭戶 : Sân trong nhà, khoảng giữa cửa cái và phòng khách ngày xưa.
- Khí Tiên Thanh 氣先清 : Khí hậu mát mẻ trước khi (sương xuống).
- Bất Cam 不甘 : là Không cam lòng; không cam tâm.
- Sổ 數 : Tính từ chỉ Vài, Một vài; Khi là Động từ thì SỔ có nghĩa là Đếm; khi là Danh từ thì đọc là SỐ (dấu sắc), có nghĩa là Con số. 

Nghĩa Bài Thơ:
Ngồi Trong Đêm

Sân trong nhà vắng vẻ chẳng có người nào, chỉ có vầng trăng thu trong sáng. Khi sương đêm sắp rơi thì khí hậu cũng trở nên mát mẻ trước. Cây ngô đồng trong sân như không cam tâm phải héo úa tàn tạ trong mùa thu, nên vài chiếc lá còn lại trên cây cũng đang cố đón gió thu hiu hắt mà xạc xào !
Cái cố gắng vươn lên của tuổi già, không chịu khuất phục trước thời gian, được tác giả thể hiện qua hình ảnh cây và lá ngô đồng, trước khi héo úa cũng ráng vươn lên mà xạc xào trước gió thu hiu hắt. 


Diễn Nôm:
DẠ TỌA

Vắng vẻ sân nhà thu sáng trăng,
Khí trời trở mát trước sương giăng.
Ngô đồng chẳng chịu thu tàn úa,
Đón gió xạc xào dưới ánh trăng. 
 
Lục Bát:

Sân nhà vắng, sáng trăng thu,
Khí trời mát trước sương mù tỏa giăng.
Ngô đồng như chẳng cam tâm,
Xạc xào mấy lá thì thầm gió thu!

Đỗ Chiêu Đức

D - DẠ TỌA của Lục Du 陸游 (Tống)

夜坐           DẠ TỌA

懷抱何蕭爽, Hoài bão hà tiêu sảng,
涼風掃鬱蒸。 Lương phong tảo uất chưng.
寒蛩喧敗草, Hàn cùng huyên bại thảo,
飢鼠囓枯藤。 Cơ thử giảo khô đằng.
蝶入誰家夢, Điệp nhập thùy gia mộng,
花殘半夜燈。 Hoa tàn bán dạ đăng.
無人論道德, Vô nhân luận đạo đức,
長嘯愧孫登。 Trường khiếu quỹ Tôn Đăng

陸游                 Lục Du

* Chú Thích :
- LỤC DU 陸游 (1125—1210)tự là Vụ Quan 務觀, hiệu là Phóng Ông 放翁. Ông là thi từ nhân đời Nam Tống. Người đất Sơn Âm Việt Châu (huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang ngày nay). Đời Tống Cao Tông ứng Lễ Bộ Thí, bị Tần Cối chặn lai. Đến đời Hiếu Tông ban hàm tiến sĩ xuất thân. Trung niên vào đất Thục, đầu quân vào quân đôi, làm đế chức Bảo Chương Các Đãi Chế. Già về sống ở quê nhà, sáng tác thi ca đến nay còn truyền tụng hơn chín ngàn bài, nội dung gồm đủ dề tài vô cùng phong phú.
- Hoài Bão 懷抱 : HOÀI là Cái Lòng, BÃO là Vòng tay, là Ôm ấp; Nên HOÀI BẢO là Trong lòng vòng tay; nghĩa bóng là "Cái gì đó mà ta ấp ũ ở trong lòng". Trong thơ là nghĩa đen, chỉ Trong vòng tay, là "Ở trong lòng" mà thôi. 
- Tiêu Sảng 蕭爽: Vắng vẻ sảng khoái dễ chịu.
- Uất Chưng 鬱蒸: là Hơi nóng nung nấu khó chịu.
- Hàn Cùng 寒蛩: Những con dế bị lạnh.
- Bại Thảo 敗草: Cỏ đã úa tạn Có héo.
- Cơ Thử 飢鼠: Những con chuột bị đói lạnh.
- Khô Đằng 枯藤: Những sợi dây mây khô.
- Tôn Đăng 孫登: Ẩn sĩ thời Tam Quốc, tự là Công Hòa, Đạo giáo tôn xưng là Tô Môn Tôn Chân Nhân. Ông ẩn cư ở Bắc Sơn Hà Nam, chuyên nghiên cứu thuyết Lão Trang và Kinh Dịch. Sau khi đắc đạo thì thuyên cư ở Tô Môn Sơn, ông biết được qúa khứ vị lai, từng khuyên răn Nguyễn Tịch và Kê Khang trong Trúc Lâm Thất Hiền quy ẩn để tránh xa cái tác hại của thế tục. Kê Khang không nghe nên cuối cùng phải chịu họa sát thân vào mình.

Nghĩa Bài Thơ:
Ngồi Trong Đêm

Sao mà lại cảm thấy trong lòng sảng khoái dễ chịu thế nầy, gió thu mát mẻ đã quét tan hết những nóng nực nung nấu bấy lâu. Những con dế lạnh lẽo còn đang kêu vang trong những vùng cỏ úa, và những con chuột đói đang cắn phá những dây mây khô. Những con bướm đêm lảng vảng như đang bay vào giấc mộng của ai kia, và những bông hoa tàn úa như những ngọn đèn nửa đêm đang tàn lụn. Không có người để cùng bàn luận về chuyện đạo đức ở trên đời, ta muốn hú dài một tiếng nhưng còn thẹn với ẩn sĩ Tôn Đăng nên lại thôi.

Diễn Nôm:
DẠ TỌA


Trong lòng sảng khoái làm sao,
Gió thu quét sạch biết bao hầm hì.
Dế mèn cỏ lạnh rỉ ri,
Những con chuột đói cắn ghì mây đay.
Chập chờn bướm nhập mộng ai,
Hoa tàn như ngọn đèn phai canh tàn.
Không người đạo đức luận bàn,
Hú dài một tiếng thẹn chàng Tôn Đăng!

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét