Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Bán Túy - 半醉

       Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...
      Là trai gái ngày xưa khi mới gặp nhau kìa, vì hiếm khi có dịp gặp gỡ, cũng như Kim Trọng và Thúy Kiều vậy, phải gặp tuần đố lá, hay nhằm tiết Thanh Minh, thì mới... thỏa lòng tìm hoa được! Còn tuổi già thì chỉ " Chập chờn vì... dở tỉnh dở say " mà thôi! Ngày xuân bên chén rượu tiêu dao ngày tháng, nhìn cuộc đời bằng con mắt nửa tỉnh nửa say là... chuyện Thường....
       Dưới đây là hai bài " Bán Túy " , một của Lý Quần Ngọc ( Ngũ Ngôn ), một của Hàn Ốc (Thất Ngôn). Mời Quý Vị cùng đọc cho vui!....


1. BÁN TÚY của LÝ QUẦN NGỌC:

  李群玉(约813~约860) 唐代诗人。字文山。澧州(今湖南澧县)人。性情淡泊,一度应进士举,不第,即弃去。裴休为湖南观察使时,对他很器重,并加延致。大中八年(854)游长安,上表献诗300篇。其时裴休为宰相,荐授宏文馆校书郎。不久,弃官回乡。

Lý Quần Ngọc ( khoảng 813-860 ). Thi nhân đời Đường. Tự Văn Sơn. Người đất Phong Châu ( là Phong huyện của tỉnh Hà Nam hiện nay ). Tính tình đạm bạc, từng đi thi Tiến Sĩ một lần, không đậu, bèn bỏ luôn. Khi Bùi Hưu làm Quan Sát Sứ đất Hồ Nam, rất coi trọng ông ta, từng tiến cử với triều đình. Năm Đại Trung thứ tám( 854 ), Quần Ngọc đến tràng an,dâng lên Vua 300 bài thơ. Lúc đó Bùi Hưu đang là Tể Tướng, mới tiến cử ông nhậm chức Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang. Nhưng chẳng bao lâu, ông lại từ quan về quê.

《半醉》
處俗常如病,
看花亦似秋。
若無時復酒,
寧遣鎮長愁。   
漸覺身非我,
都迷蝶與周。
何煩五色藥,
尊下即丹丘。
李群玉:半醉
Bán Túy

Xử tục thường như bệnh,
Khán hoa diệc tự thu.
Nhược vô thời phục tửu,
Ninh khiển trấn trường sầu.
Tiệm giác thân phi ngã,
Đô mê điệp dữ Châu
Hà phiền ngũ sắc dược,
Tôn hạ tức đan khâu.

Lý Quần Ngọc

Chú thích:
1. Xử 處 :( Động từ ) là giải quyết. Vd : Xử lý, xử trí.
là cách. Vd : Xử thế : là cách ở đời.
là Ở ( trong ). XỬ TỤC : Ở trong cỏi trần tục.
Đọc là XỨ( danh từ ), thì có nghĩa là NƠI CHỐN. Vd : Xứ xứ : là Nơi nơi. " Xứ xứ tà dương thảo tự đài ".
2. Nhược 若 : là Nếu, Nếu như. Nhược Vô : là Nếu như không, là cảm thấy trống rổng như không có gi. Cảm thấy chán nản.
3. Ninh 寜(寕): là Chắc, vững. Vd : An Ninh.
Ninh là giới từ thì có nghĩa : Thà , thà rằng , chẳng thà. NINH KHIỂN :
là Thà chịu ( thà tiêu khiển trong việc... )
4. Trấn 鎮 : Danh từ , Trấn là THỊ TRẤN.
Động từ , Trấn là Đè, Nén. Vd : Trấn áp. Trong bài thơ có nghĩa là Chịu đựng.
5. Điệp dữ Châu ( Chu ) : Bướm và Trang Chu : Trang Chu ( Châu ) là Trang Tử, thường nằm mơ thấy mình hóa bướm, dạo chơi cùng khắp. Khi tỉnh dậy còn mơ hồ không rõ là mình hóa ra bướm, hay là bướm hóa ra mình.
6. Ngũ sắc dược : Thuốc 5 màu của các đạo sĩ ngày xưa luyện nên, uống vào để tu thành Tiên.
7. Đan Khâu : là Những đan ( đơn ) dược được luyện thành, uống vào để lên Tiên, cũng như ngũ sắc dược ở trên, samething ,chỉ khác cách nói.

Dịch xuôi:
Ở trong cỏi trần tục nầy, thường cảm thấy như là đang bệnh ( xuống tinh thần ). Ngắm hoa cũng không thấy vẻ xuân mà lại buồn như mùa thu. Khi cảm thấy ( tâm hồn ) trống không, thì lại uống rượu. Thà rằng tiêu khiển như thế nầy ( uống rượu ) để nén cơn sầu dài dằng dặc. Dần dần cảm giác thân ta không còn là ta nữa, tất cả đều mơ hồ như bướm với trang Chu vậy.( Thôi thì ) , cần chi phải làm phiền đến thuốc ngũ sắc,( Ý nói không cần phải có thuốc ngũ sắc ). Dưới chay rượu của ta( tôn hạ ) tức là thuốc đan dược để thành tiên đó !( Ý nói : Uống một bầu rượu vô rồi thì nửa tỉnh nửa say, lâng lâng như lên tiên vậy ! )

Diễn nôm:

Dở Say
Cỏi tục thường như bệnh
Ngắm hoa cứ ngỡ thu
Khi buồn lại uống rượu
Thà sống mãi với sầu
Ta ngỡ không ta nữa
Cứ tưởng bướm Trang Châu
Chẳng cần đan ngũ sắc
Chỉ thích rượu một bầu!
Đỗ Chiêu Đức

2. BÁN TÚY của HÀN ỐC :

中国唐代诗人。乳名冬郎,字致光,号致尧,晚年又号玉樵山人。陕西万年县(今樊川)人,生于唐开成五年(840年)。自幼聪明好学,10岁时,曾即席赋诗送其姨夫李商隐,令满座皆惊,李商隐称赞其诗是“雏凤清于老凤声”。龙纪元年(889年),韩偓中进士,初在河中镇节度使幕府任职,后入朝历任左拾遗、左谏议大夫、度支副使、翰林学士。

Hàn Ốc ( 840-923 ). Thi nhân đời Đường TQ. Nhũ danh Đông Lang, tự là Trí Quang, hiệu là Trí Nghiêu, về già lại có biệt hiệu là Ngọc Tiều Sơn Nhân. Người huyên Vạn Niên tỉnh Thiểm Tây( nay là Phàn Xuyên ). Sanh vào năm thứ 5 Khai Thành nhà Đường. Từ nhỏ thông minh, hiếu học. Khi 10 tuổi, đã làm thơ ngay trong tiệc để tặng cho dượng rể là Lý Thương Ẩn, làm mọi người trong tiệc đều kinh ngạc. Lý khen thơ của ông là " Sồ phụng thanh vu lão phụng thinh " , có nghĩa " Tiếng của con phụng trẻ hót thanh hơn là tiếng của con phụng già ". Năm đầu của Long Kỷ ( 889 ). Hàn Ốc đậu Tiến Sĩ . Lúc đầu nhậm chức Mạc Phủ cho Tiết Độ Sứ ở Hà Trung Trấn. Sau vào triều với các chức Tả Thập Di, Tả Giám Nghị Đại Phu, Độ Chi Phó Sứ, và Hàn Lâm Học Sĩ.

《半醉》
水嚮東流竟不回,
紅顔白發遞相催。
壯心暗逐高歌盡,
往事空因半醉來。
雲護雁霜籠澹月,
雨連鶯曉落殘梅。
西樓悵望芳菲節,
處處斜陽草似苔。
韓偓:半醉

Thủy hướng đông lưu cánh bất hồi,
Hồng nhan bạch phát đệ tương thôi
Tráng tâm ám trục cao ca tận
Vãng sự không nhân bán túy lai
Vân hộ nhạn sương lung đạm nguyệt
Vũ liên oanh hiểu lạc tàn mai
Tây lâu trướng vọng phương phi tiết
Xứ xứ tà dương thảo tự đài!

Hàn Ốc

Chú thích:
1. Ốc 偓 : Đúng ra phải đọc là ÁC, chữ nầy không có nghĩa , chỉ dùng để đặt tên. Đây là tên của một vị tiên đời xưa. Có thể các Cụ ta thấy chữ Ác nghe không tao nhã, cho nên đọc trại thành Ốc, vì chữ nầy có Bộ Nhân 人và chữ Ốc 屋, nên mượn âm chữ Ốc để đọc luôn nghe cho hay mà thôi.
2. Cánh 竟 ; là Xong, Hết, Hoàn thành . Vd : Vị cánh : chua xong , chưa hoàn thành. Khi là PHÓ TỪ thì có nghĩa là : Lại, Mà, Mà lại. tỏ ý bất ngờ về cái gì đó. Vd : Cánh nhiên như thử : Không ngờ lại thế. Khi là ĐỘNG TỪ thì có nghĩa CHẮC CHẮN. Vd : Hữu chí cánh thành ( Có chí thì chắc chắn sẽ thành công, ta nói CÓ CHÍ THÌ NÊN ! ). Trong bài thơ là... Cánh bất hồi : chắc chắn không trở lại !
3. Đệ 遞, giản thể : 递: Động từ nghĩa là CHUYỂN GIAO. Vd : Đệ trình, Đệ đơn., Truyền đệ . Là Phó Từ thì có nghĩa là : Dần, dần dần. Trong bài thơ Đệ tương thôi : Dần dần thôi thúc nhau, thay thế nhau.
4. Trục 逐 : là Đuổi, Xua đuổi. Vd : Trục khách : đuổi khách. Trục xuất : đuổi ra ngoài. Phó từ có nghĩa : Từng bước, lần lượt. Trong bài thơ là ÁM TRỤC : Lặng lẽ từng bước, lần lượt âm thầm.
5. Đạm 澹: Khi đọc là Đạm thì đồng nghĩa với chữ Đạm 淡 là Nhạt, loãng, mỏng. Đạm Nguyệt : là ánh trăng nhàn nhạt, ánh trăng mơ huyền ( mờ ). Đạm còn có nghĩa là Yên tĩnh, Lặng lẽ. Vd : Đạm đạm Trường giang thủy : Nước sông Trường giang lặng lẽ trôi. Khi đọc là ĐÀM thì là Họ của ai đó.
6. Hiểu 曉 : là Biết, vở lẻ. Vd : Hiểu đắc là biết được( điều gì đó ). Khi là Danh Từ thì có nghĩa là BUỔI SÁNG , Vd : Hiểu phong tàn nguyệt : là trăng tàn gió sớm. Trong bài thơ là Oanh Hiểu ; là chim oanh hót buổi sáng sớm.
7. Phương Phi ; là mùi thơm của hoa cỏ, cũng dùng để chỉ Hoa Cỏ mà thôi. Trong bài thơ là Phương Phi Tiết : là Tiết trời của hoa cỏ, là chỉ tiết của mùa xuân đó.

Dịch nghĩa:
Nước chảy về biển Đông chắc chắn sẽ không bao giờ trở lại rồi, cũng như từ trẻ rồi trở về già phải lần lượt như thế thôi.Những hùng tâm tráng chí khi xưa cũng lặng lẽ chấm hết như lời cao ca đã kết thúc. Nên dở tỉnh dở say của hôm nay cũng không phải do chuyện cũ mà ra. Mây như che chở cho chim nhạn bay trong sương làm lung linh ánh nguyệt. Tiếng mưa như hòa với tiếng hót của chim oanh buổi sáng làm rụng mấy cánh mai tàn. Đứng trên lầu Tây bồi hồi nhìn tiết xuân của hoa cỏ, thấy khắp nơi trong ánh nắng chiều cỏ mọc tựa như rêu.
Theo ý tôi thì vì ở trong tình trạng BÁN TÚY, nên tác giả mới thấy cỏ tựa rêu, cũng như thấy chim nhạn bay trong sương làm lung linh ánh trăng mờ.....

Diễn nôm:

Nửa Tỉnh Say

Nước chảy về đông không trở lại
Đầu xanh tóc trắng cũng đổi thay
Hùng tâm nào thuở ngân cao giọng
Chuyện cũ thôi rồi nửa tỉnh say
Mây nhạn nương sương mờ bóng nguyệt
Mưa oanh rựng sáng rụng tàn mai
Lầu tây buồn ngắm chiều nghiêng nắng
Khắp chốn rêu xanh ngỡ cỏ dài !

Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét