Thứ Tư, 20 tháng 11, 2024

Tạ Ơn Trời Cho Ngày Bình An - Thơ: Nguyễn Nga - Nhạc: Nguyễn Tuấn - Ca Sĩ:Minh Đạt


Thơ: Nguyễn Nga
Nhạc: Nguyễn Tuấn
Ca Sĩ:Minh Đạt

Tạ Ơn! Ơn Tạ!

 
Tạ ơn trời đất đã giao hòa
Tạ ơn nhân đức của Má Ba
Tạ ơn tất cả buồn vui đến
Tạ ơn vạn vật trổ ngàn hoa

Tạ ơn đau khổ để vươn lên
Tạ ơn hạnh phúc biết cách nhìn
Tạ ơn đêm lặng tâm yên tịnh
Tạ ơn ánh sáng tỏa bình minh

Tạ ơn tri kỷ của lòng tôi
Tạ ơn nhịp sống phút tuyệt vời
Tạ ơn tha thiết tình luôn mới
Tạ ơn! Ơn tạ! ... khắp mọi nơi....!

Kim Oanh
Melbourne 20.11.2024

Tạ Ơn

Thơ & Trình Bày:Minh Lương


Tạ Ơn Trời Cho Ngày Bình An

 
Sáng hồng tia nắng thái dương
Tiếng chim réo bạn kiếm đường tung bay
Cỏ cây lóng lánh sương mai
Cành hoa chớm nở khoe vài sắc hương
Cuộc đời biến đổi ngàn phương
Chung vòng sinh tử bên đường xá chi
Tình yêu vui đến rồi đi
Ganh đua danh vọng sân si nghiệp tràn
Quên đi tai ác ngàn trùng
Phù du bỗng lộc xin đừng vẫn vương
Nụ hoa kia nỡ tinh sương
Chiều về tan tác sắc hương trong vườn
Qua bao tĩnh thức đêm trường
Ngày vui khoảnh khắc vô thường nhịp tuôn
Nhìn quanh phảng phất mùi hương
Muôn hoa vui đón ánh dương đầu ngày
Cảm ơn đời vẫn chưa phai
Cho ta thức dậy chào ngày bình an
Tạ Ơn Trời Đất vô vàn
Ơn Trên xin cứu muôn ngàn chúng sinh.

Lê Nguyễn Nga
Nov.  2024


Lễ Tạ Ơn Nhà Chị Tôi

 

Tháng Mười Một lễ Tạ Ơn về
Khắp nẻo thị thành đến chốn quê
Rộn rã cháu con về khắp lối
Lu bu người chị chạy trăm bề
Gà Tây vàng rụm nhìn sao đã
Bàn tiệc sắc mầu thấy quá mê
Tụ họp cùng cảm lòng nước Mỹ
Chuyện trò êm ấm thật là phê.


Lê Mỹ Hoàn
11/2024
(Thơ Họa)

Tạ Ơn Lời Công Đạo

 

Thì ít nhất, cũng có người trung trực,
Nêu rõ mặt thực của cuộc chiến tranh.
Lời xin lỗi của Thống Tướng Westmoreland,
Là vòng tay, nối liền Tình Chiến Hữu!

Tôi quí trọng Vị Tướng Lãnh kỳ cựu,

Đã từng tận lực yểm trợ chúng tôi.
Quân lính Ông, trong khói lửa ngút trời!
58281 người đã hy sinh xương máu!

Tôi kính cẩn hôn Cờ Hoa yêu dấu,
Tạ ơn người Chiến Sĩ, bạn đồng minh.
Tới Việt Nam, các Bạn đã hy sinh!
Ngăn làn sóng đỏ tràn lan thế giới.

Ai ngờ… chiến lược Hoa Kỳ thay đổi,
Bỏ Á Châu, xoay trục hướng Đông Âu!
Việt Nam Cộng Hòa, thân phận “chốt đầu”
Nước cờ “thí chốt”… chúng tôi cam chịu!

Niềm Quốc Hận!!! ôm mối sầu nặng chĩu!
Đắng cay nhìn dòng lịch sử bôi đen!
Lời xin lỗi của Thống Tướng Westmoreland,
Dù chậm trễ, nhưng còn hơn không có.

Cả thế giới, đến nay đều hiểu rõ,
Những uẩn khúc, của chiến cuộc Việt Nam.
Xin tạ ơn Thống Tướng Westmoreland,
Đã can đảm nói lên lời công đạo!

Trần Quốc Bảo

Richmond, Virginia

Đau Khổ Là Một Mầu Nhiệm


Năm 1993, khi mới đến Mỹ, gia đình chúng tôi đến văn phòng Hội USCC San Diego để làm một số giấy tờ của người mới định cư. Trong khi đang chờ đợi bỗng có một nhân viên ở đó đưa cho tôi tờ nhắn tin như sau:
“Quí vị nào biết gia đình ông Bửu Uyển ở đâu, xin liên lạc với:
Lê Văn Thành, điện thoại số 2514468353
Địa chỉ 428 E Church St., Atmore, AL 36502
Tôi vô cùng ngỡ ngàng và cảm động vì Thành là bạn thân của tôi từ lúc chúng tôi còn nhỏ.
Khi hoàn tất các giấy tờ ở Hội USCC, tôi vội vàng trở về nhà, gọi điện thoại ngay cho Thành. Ở đầu dây bên kia, giọng Thành cảm động:
- Cậu đó hả! Tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, cuối cùng mình cũng gặp lại nhau. Mình tìm kiếm cậu khắp nơi từ bao lâu nay. Thế gia đình cậu qua Mỹ lúc nào vậy?
- Mình mới qua được 5 ngày.
- Được rồi, đọc lại số điện thoại của cậu và cho mình địa chỉ, vợ chồng mình sẽ qua thăm cậu.

Một tuần sau, vợ chồng Thành qua San Diego thăm chúng tôi. Thành ôm chầm lấy tôi, xúc động nói:
- Thật vui mừng được gặp lại cậu, Trông chờ mãi, lắm lúc mình nghĩ có lẽ không bao giờ gặp lại nhau. Cậu ốm qua, nhưng không sao, qua Mỹ một thời gian sẽ mập ra thôi.
Thành quay ra giới thiệu: “Đây là Thoa, vợ mình.”
Tôi hơi ngạc nhiên, Thành nói ngay:
- Đây là vợ sau của mình. Câu chuyện dài dòng lắm, để lát nữa mình sẽ kể cho cậu nghe.
Tôi trò chuyện với Thành, còn Thoa vui vẻ chỉ dẫn cho vợ tôi một vài kinh nghiệm sống ở Mỹ. Mới gặp nhau lần đầu nhưng Thoa và vợ tôi thân mật như đôi bạn quen nhau từ lâu.
Thành kéo tay tôi: “Để cho hai bà nói chuyện áo quần, bếp núc. Tụi mình đi kiếm gì ăn, rồi mua về cho mấy cháu.”
Ngồi trong một tiệm ăn Việt Nam, khi chờ thức ăn mang lên, Thành nhìn qua cửa sổ, trầm buồn nói với tôi:
- “Anh nhớ không, từ nhỏ, tụi mình thân nhau như anh em ruột; cùng sinh hoạt Hùng Tâm, Dũng Chí ở Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Huế, cùng giúp lễ cho cha Đài, cha Ngà, cha Nghiễm, cha Phục. Năm 1964, tôi bị động viên vào Thũ Đức, ra chuẩn úy, về phục vụ Sư đoàn 1. Năm 1968, tôi lập gia đình với Chi. Hai năm sau, chúng tôi có con gái đầu long, là bé Oanh. Sau đó chúng tôi có thêm một cháu trai và một cháu gái nữa,

Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Huế,

Ngày 30-4-1975 ập đến, như một cơn lốc cuồng loạn, thổi phăng hạnh phúc của gia đình chúng tôi.
Tôi quyết định không trình diện cải tạo, ở lang thang nay đây mai đó trong thành phố Đà Nẵng, hành nghề xe đạp ôm để phụ với vợ nuôi con. Còn Chi thì mua bán áo quần cũ ở Chợ Cồn. Vì cuộc sống vất vả, ăn uống thiếu thốn, lại lo buồn cho chồng, cho con, một năm sau, Chi nhuốm bệnh.
Không được bồi dưỡng, không thuốc thang, nên năm 1978, Chi qua đời. Đám tang của Chi là một đám tang nghèo nàn, tẻ nhạt và cô đơn hơn tất cả những đám tang trên thế gian này. Chồng của Chi là tôi, đi theo sau quan tài của vợ mà phải đi xa xa, sợ công an phát hiện. Nhìn 3 đứa con với vành khăn tang trên đầu, khóc lóc đi sau quan tài của mẹ, tôi muốn đi lên.”
Thành quá xúc động, lấy khăn tay lau nước mắt, rồi anh kể tiếp:
- Sau đó, 3 đứa con tôi được các Soeurs dòng Thánh Phao Lồ đem về nuôi như những trẻ mồ côi khác.
Buồn khổ quá, tôi thất thểu đạp xe vào nhà thờ Đà Nẵng, đi đến trước hang đá. Tôi ngước lên nhìn tượng Đức Mẹ, bỗng nhiên nước mắt tôi chảy ra ràn rụa, tôi khóc; khóc thành tiếng, mặc cho người chung quanh nhìn tôi, tho co nôi thấy lòng vơi bớt sầu khổ. Tôi lại nhìn lên tượng Đức Mẹ. Tôi nghe như Đức Mẹ an ủi tôi: “Hởi con, hãy can đảm lên, phấn đấu để sống cho con và các con của con; chúng rất cần sự yêu thương của con. Con hãy trông cậy vào Chúa. Chúa không bỏ con đâu".
Tôi như bừng tỉnh. Tôi tạ ơn Đức Mẹ.

Cuộc sống của tôi thật vô cùng khốn khổ nhưng ngày nào tôi cũng đến viếng Đức Mẹ và càu xin Đức Mẹ từ bi nhơn hậu phù hộ, cứu giúp cho cha con chúng tôi.
Bỗng một hôm, mẹ vợ của tôi đến gặp tôi khi tôi đang đón khách ở chợ Cồn. Bà hốt hoảng bảo tôi: Con nên rời khỏi đây ngay, họ đã biết có con ở đây. Mấy hôm nay họ đã lùng sục ở mấy nhà quen rồi, hiện nhà mình bị canh chừng kỹ lắm. Con nên đi vô Nam, trong đó đất rộng, người đông, không ai biết ai, dễ sống. Ba đứa nhỏ đã có các Soeurts và mẹ lo, con cứ yên tâm đi đi.

Tôi về ngay nhà trọ, lấy vội cặp áo quần cũ với vài vật dụng linh tinh, cho vào một giỏ đệm, treo lên ghi đông xe đạp, rồi đạp xe đi về hướng Nam. Nghĩ lại, thật nực cười cho tôi vì tôi tính đi vào Sài Gòn bằng chiếc xe đạp cũ kỹ của mình.
Nhưng ngày qua ngày. Tôi đến Tam Kỳ, rồi Quảng Ngãi. Đi đến đâu, hành nghề xe đạp ôm đến đó để sống.
Tôi đi lần vào Nam. Hơn một tháng sau, tôi đến thị trấn Tam Quan, tình cờ khi tôi đang lân la ở bến xe để đón khách, tôi xin một xe chở hàng cho tôi đi quá giang vào Nha Trang. Xe đến Nha Trang lúc 7,8 giờ tối gì đó.
Tôi mua một ổ bánh mì, ăn vội, rồi lửng thửng đạp xe đi trong một thành phố hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Khi đi ngang qua một nhà thờ, tôi ghé vào nhưng nhà thờ đã đóng cửa, tôi đi ra hang đá ở cuối nhà thờ, quì xuống. Tôi lại khóc. Không hiểu sao cứ mỗi lần nhìn tượng Đức Mẹ và cầu nguyện với Đức Mẹ là tôi khóc, khóc sướt mướt như một đứa trẻ làm nũng với Mẹ vậy.
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng của tôi, nếu không có trông cậy vào Đức Mẹ, chắc tôi không sống nỗi.
Rời hang đá trong gia đình của những người con Đức Mẹ,tôi tiếp tục đạp xe đi lang thang trong thành phố Nha Trang đã lên đèn.

Quá mệt mõi và chán nản, tôi dừng xe trước một căn nhà đã đóng cửa đi ngủ. Nhà ấy có một mái hiên khá kín đáo, có thể giúp tôi ngủ qua đêm được. Dựng xe đạp vào vách tường, tôi nằm lăn ra ngủ. Đến quá nửa đêm , tôi giật mình thức giấc vì người trong nhà ấy đã thức dậy. Tôi ngạc nhiên vì trời còn tối (có lẽ khoảng 3,4 giờ sáng gì đó), họ thức dậy làm gì mà sớm vậy! Nhưng chỉ một lát sau, khi nhìn những túi xách nhỏ, gọn gang của họ; nhìn những gương mặt ngơ ngác, lo lắng, sợ sệt của những người trong gia đình …tôi hiểu ngay: họ đang chuẩn bị vượt biên. Một người đàn ông ra mở cửa để đi, họ thấy tôi ngồi đó, ai cũng ngỡ ngàng , pha chút bối rối. Tôi đánh bạo nói: Các bác đi đâu cho tôi theo với.
Người đàn ông quay nhìn vợ, ngần ngừ một lát rồi ông ta quyết định:
- Được rồi! Anh muốn đi, tôi cho đi, cùng sống cùng chết với nhau.

Ngay lúc đó, một chiếc xe Lam 3 bánh dừng lại trước nhà, đưa gia đình ấy và tôi đến một bãi biển khá xa thành phố. Mọi người lên một ghe nhỏ, chèo tay, đưa ra một ghe lớn đậu tít ngoài khơi. Trước lúc trời sáng, ghe nổ máy ra đi. Người đàn ông chủ ghe tên Đông, giao cho tôi nhiệm vụ tát nước, khi dưới khoang thuyền có nước. Khoảng 15 phút sau, ghe chạy đều đều trên biển, tôi làm dấu thánh giá và đọc kinh, tạ ơn Đức Mẹ. Tôi biết, tôi tin, chỉ có Đức mẹ mới sắp xếp được cho tôi một chuyến vượt biên kỳ lạ như vậy.

Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, chúng tôi được tàu kéo đến trạ Palawan bình yên. Ỡ trại một thời gian, tôi được IOM cho đi định cư ở Mỹ. Vì tôi không có thân nhân ở Mỹ nên Hội USCC đã nhờ Linh mục Michael ở Alabama bảo trợ cho tôi. Cha Michael là cha xứ của Họ đạo "Our Lady of Perpetual Help Church" ở thành phố Atmore. Cha Michael cho tôi làm công việc chăm sóc cây cảnh, vườn cỏ của giáo xứ với mức lương tôi không dám mơ ước: 600 đô la một tháng! Mỗi tháng, tôi gởi một ít tiền về cho cơ sở Dòng Thánh Phao Lồ ở Đà Nẵng để quí Soeurs lo cho các trẻ mồ côi, trong đó có 3 con của tôi. Trong những ngày chăm sóc cây cảnh cho giáo xứ, tôi thấy một bé gái khoảng 9,10 tuổi thường đến xem tôi làm việc. Thấy cháu bé có nét mặt người Việt Nam, tôi tò mò hỏi: cháu tên gì? Em bé ngạc nhiên, vui mừng nhìn tôi và hỏi lại : Bác là người Viêt Nam hả? Từ đó tôi có một người bạn nhỏ và duy nhất vì trong giáo xứ toàn người Mỹ. Tên của cháu bé là Kathrine.

Giáo xứ có một nhà kho khá rộng, cha Michael sơn quét sạch sẽ rồi cho tôi làm chỗ ở. Mùa đông 1981 tôi bị cảm cúm nặng, nằm liệt giường. Một hôm, tôi thấy bé Kathrine đi thơ thẩn ngoài vườn hoa của giáo xứ, có lẽ cháu đi tìm tôi. Tôi cố gắng ngồi dậy, mở cửa gọi cháu. Kathrine chạy đến, thấy tôi tiều tụy xanh xao, bé ôm lấy tôi và khóc rưng rức. Tôi kể cho bé Kathrine, tôi bị cảm cúm mấy hôm nay, nhưng không biết nhờ ai đi bác sĩ. Bé Kathrine chạy vội về nhà, một lát sau trở lại với một bà đứng tuổi, tôi đoán là mẹ của cháu. Vừa gặp tôi, bà ấy nói ngay: Bác là bác Thành phải không? Tôi thường nghe con gái tôi nói về bác, cháu nó mến bác lắm. Cháu vừa cho biết bác bị cảm cúm mà không ai đưa đi bác sĩ. Tôi là người đồng hương với bác, để tôi giúp bác.
Từ đó, tôi có thêm một người bạn, ngoài cháu Kathrine. Bà ấy tên là Thoa. Năm 1969, bà ấy kết hôn với một sĩ quan Không quân Mỹ ở Biên Hòa. Năm 1971, bà theo chồng về Mỹ. Không may cho gia đình ấy, năm 1976, chồng bà qua đời vì một tai nạn xe cộ.

Ngừng một lát, Thành kể tiếp:
Biết được hoàn cảnh của cha con tôi, bà ấy thường gởi tiền vè nuôi các con của tôi. trước các dịp lễ lớn, như Noel, Tết…, bà gởi về cho các con tôi những thùng quà rất giá trị . Quí Soeurs ở Việt Nam thường gởi thư qua cảm ơn vì quà của bà gởi về, ngoài 3 con của tôi đươc hưởng, Soeurs còn phân phát cho các em khác nữa. Tôi mang ơn bà ấy. Tôi còn nhớ, trong một party của giáo xứ nhân ngày đầu năm, Cha Michael gặp chúng tôi, nửa đùa nửa thật, cha nói với chúng tôi: Có gì ngăn trở đâu, sao ông bà không kết hôn với nhau?! Tôi nhìn bà ấy, bà mỉm cười. Sau khi chúng tôi kết hôn với nhau, Thoa làm đơn bảo lãnh 3 con của tôi qua Mỹ. Vì Thoa có quốc tịch Mỹ, lại có đầy đủ tài chánh nên chỉ một thời gian ngắn, cả 3 con của tôi đã đoàn tụ với tôi ở Mỹ. Việc đoàn tụ một cách lạ lùng của 3 cha con chúng tôi làm cho tôi tin rằng: Không có việc gì mà Đức Mẹ không làm được, nếu ta thành khẩn kêu xin.
Tôi nhớ lại ngày xưa, Cha Ngà (Dòng Chúa Cứu Thế) thường giảng rằng; Đau khổ là một mầu nhiệm. Lúc ấy, tôi không hiểu Ngài muốn dạy điều gì. Nhưng sau mấy chục năm gian khổ của cuộc sống, với ơn Chúa giúp, với sự phù hộ của Đức Mẹ, tôi đã có thể chịu đựng và vượt qua mọi đau khổ, nhờ vậy, tôi thấy mình lớn lên trong đức tin, bền đỗ trong đức cậy và dạt dào lòng yêu mến Chúa.

Tôi cũng bắt đầu cảm nhận rằng: Lòng Mẹ Maria yêu thương tôi không những chỉ là những hồng ân tốt đẹp mà Mẹ đã ban cho tôi, mà ngay cả những đau khổ, khốn khó tôi đã gánh chịu, cũng nói lên lòng Đức Mẹ yêu thương tôi biết dường nào!

“Xin tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ.”

Bửu Uyển

Muà Lễ Tạ Ơn


Bước sang Tháng Mười Một, trời miền bắc Cali bắt đầu trở lạnh. Gần 10 giờ sáng mà ông mặt trời vẫn còn như ngủ muộn, chưa chịu chui ra khỏi những tảng mây xám và màn sương như trải tấm lụa mỏng che phủ cảnh vật. Không gian ủ ê, xám buồn. Cali mới chớm thu, lá còn xanh. Qua internet gần như khắp nơi, đặc biệt ở Canada và bên miền đông Hoa Kỳ lá đã đổi mầu. Thiên nhiên đẹp như tranh vẽ với màu sắc tươi sáng hài hòa, những rặng cây đỏ thắm, vàng tươi, vàng mơ đua nhau khoe sắc. Lá vàng, lá đỏ rụng xuống dệt thành những tấm thảm dầy bao phủ mặt đất, thỉnh thoảng những chiếc lá khô cũng xào xạc bay theo gió hay vỡ vụn dưới chân. Sắc Thu rực rỡ nên mùa Thu quyến rũ khiến người ta ngất ngây.

Sang Tháng 11 cũng bắt đầu mùa Lễ Tạ Ơn. Theo truyền thống của đại gia đình họ Đỗ chúng tôi, Thanksgiving là ngày “Family Reunion”, tất cả con cháu sẽ tụ tập tại Đỗ Gia Trang từ Thứ Năm đến Chủ Nhật mới chia tay. Năm ngoái, năm 2020, tuy bị nạn dịch Covid-19 ngăn trở, Đỗ Family Reunion vẫn được tiến hành qua Zoom, tuy không được cận kề bên nhau, nhưng chúng tôi vẫn rất nô nức mong chờ.

Nạn dịch kéo dài không biết đến bao giờ mới dứt, thêm những rắc rối, hỗn loạn của mùa bầu cử, ngồi ngoài vườn, ngước lên trời tìm mây, dõi theo những cụm mây xám lờ lững bay mà tôi thở dài. Tôi mong thời gian mau qua để nhìn thấy quê hương thứ hai của tôi trở lại thanh bình, vĩ đại, tốt đẹp như cũ. Hoa Kỳ sẽ lấy lại được sự kính trọng, mơ ước của mọi người trên thế giới. Một “promised land”cho những người đã phải bỏ quê hương mà đi.

Vì nạn dịch, mọi người phải giới hạn những cuộc gặp gỡ, hội họp, nhưng chị em chúng tôi vẫn “zoom meeting” hàng tháng và “face time” với con cháu thường xuyên. Vì ảnh hưởng của TT Trump, dân Mỹ chia rẽ thành hai phe rõ rệt, bên bênh, bên chống, gây ảnh hưởng rất tai hại vào sinh hoạt của các hội đoàn, và ngay cả trong rất nhiều gia đình. Ngày trước bạn bè gặp nhau mừng rỡ, đồng đội xa cách thì thấy nhớ, thấy thương. Bây giờ tự dưng vì bất đồng chính kiến mà sự chia rẽ trầm trọng, ghét bỏ nhau, chửi bới nhau nặng nề hơn cả đối với cựu thù! Vì đâu nên nỗi!? May mắn thay, gia đình chúng tôi không vướng mắc phải cái nạn đau thương đó. Từ thế hệ chúng tôi đến hàng con, hàng cháu đều vì nhớ lời dạy dỗ của cha mẹ tôi là các con phải đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau và bao giờ cũng phải giữ một cuộc sống có ĐẠO ĐỨC, LƯƠNG TÂM và TRÁCH NHỊÊM nên nếp suy nghĩ tương đối cũng gần giống nhau và không đưa đến bất đồng trong sự lựa chọn Tổng Thống của kỳ bầu cử lần này.

Từ trước 1975, với bầy con 12 đứa, cha mẹ tôi đã ấp ủ có một Đỗ Gia Trang, một dẫy nhà hình chữ U gồm 13 phòng lớn. Ông bà một phòng và mỗi gia đình con một giang sơn nhỏ để khi ông bà về hưu thì gia trang này sẽ là nơi con cháu tụ họp vào những ngày Tết Nguyên Đán, ngày giỗ hay dịp nghỉ hè. Ông sẽ cầm cây gậy chỉ huy của Ông để chỉ huy lũ cháu chắt. Cả một gia trang sẽ rộn rã tiếng cười... Cha mẹ chúng tôi đã mua sẵn mấy mẫu đất trên sườn đồi khu Mê Linh, Đà Lạt, trông ngay ra mặt hồ, phong cảnh thật hữu tình, nên thơ để thực hiện giấc mơ đó. Nhưng ai ngờ, đến ngày 30 Tháng Tư 1975 oan nghiệt! Tất cả các mộng ước của ông bà đều vỡ tan. Nhà đã vẽ nhưng chưa kịp xây thì cha tôi, một sĩ quan cấp tá của Quân Đội VNCH đã phải khăn gói đi tù cải tạo. Hơn mười năm cha tôi đã nhục nhằn trong vòng khổ ải từ trại Long Giao trong nam đến Hà Sơn Bình ngoài bắc, đến khi được ra tù thì đã sức tàn, lực kiệt.

Mẹ tôi rất giỏi dang, chịu thương chịu khó, cả đời buôn bán chắt chiu, cùng với cha tôi gây dựng cơ nghiệp và nuôi dậy cho anh chị em chúng tôi được nên người. Sau năm 1975, trong khi cha tôi phải đi tù, mẹ tôi đã phải chịu đựng lam lũ để kiếm sống và chăm lo cho các con. Đến năm 1978 nhà mẹ tôi bị đánh tư sản, đồ đạc trong nhà bị kiểm kê, tài sản mất hết! Biết là không sống được với chế độ này, lần lượt mẹ tung các con, từng đứa, từng đứa tìm đường vượt biển, chỉ còn giữ cô út ở nhà với mẹ để chờ bố. Cuối cùng, 11 anh em chúng tôi cũng đoàn tụ trên đất Mỹ, lần lượt lập gia đình và sống rải rác tại hai tiểu bang Texas và Cali.

Mãi đến ngày 20 Tháng Tư năm 1990, một bầy con cháu ra phi trường San Francisco để đón ông bà và dì út từ Việt Nam sang đoàn tụ. Sau bao nhiêu năm chờ đợi, đến tuổi bẩy mươi ông bà mới được gặp đầy đủ các con, thêm dâu rể và mười hai đứa cháu. Tổng cộng nhân số đại gia đình lúc bấy giờ đã lên gần bốn mươi người. Cha mẹ tôi vẫn luôn mong muốn mỗi năm con cháu phải có một ngày họp mặt đông đủ, cả nhà quây quần với nhau như mộng ước của ông bà ngày trước. Từ khi chúng tôi còn nhỏ, anh con trưởng được cha tôi đặc biệt dạy dỗ và khi anh đi du học thì tôi là con gái lớn được ông coi như cái đầu tầu cuả đoàn xe lửa nhiều toa của ông. Quan niệm của cha tôi là anh em, con cháu phải giữ sợi dây liên lạc chặt chẽ và phải sống đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau.

Chúng tôi quyết định chọn ngày Thanksgiving, dịp mà mọi người đều được nghỉ và có một “long weekend” làm ngày họp mặt hàng năm của đại gia đình. Những năm đầu, chúng tôi đã mướn một ngôi nhà thật lớn ở Lake Tahoe để cùng nhau đoàn tụ, chung sống dưới cùng một mái nhà. Cứ thế, như một truyền thống, không cần nhắc nhở mà cứ sau ngày Halloween là từ già đến trẻ, từ lớn đến bé đều kêu gọi nhau và ríu rít bàn về chương trình ngày “reunion”. Cô em thứ mười quen sinh hoạt Hướng Đạo, được giao vai trò trưởng ban tổ chức. Lịch trình sinh hoạt, thực đơn ăn uống và bảng phân công nhiệm vụ được niêm yết rõ ràng. Ngoại trừ các vị “bô lão”, tất cả mấy chục thành viên từ lớn đến nhỏ đều được giao việc hẳn hoi. Cô em út rất chu đáo trong việc sắp xếp nơi ăn, chốn ở cho tất cả mọi người.

Những năm đầu tiên các cháu còn nhỏ nên dù đông nhưng cả đại gia đình vẫn có thể ở chung trong một căn nhà rộng bẩy hoặc tám phòng. Đám chaú choai choai mỗi đứa một cái “sleeping bag”, nằm ngổn ngang ngoài phòng khách, cười đùa rúc rích với nhau. Cha mẹ tôi rất vui sướng trong những ngày có con cháu sum họp đông đủ.

Tôi vẫn nhớ hình ảnh ông cụ mặc bộ pyjama trắng, đầu tóc bạc phơ ngồi bệ vệ trong chiếc ghế bành bên lò sưởi ngắm ba thế hệ con - cháu - chắt chơi đùa, bà ngồi trên thảm chơi với những đứa bé bò lổm ngổm xung quanh. Ông bà ngắm nhìn con cháu với nụ cười mãn nguyện và hạnh phúc. Ông luôn nhắc nhở con cháu phải nhớ đến cội nguồn và phải nói tiếng Việt với nhau, đứa nào nói tiếng Anh ông vờ như không hiểu để cháu phải nói lại bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi nhớ có lần cả đám trẻ đang ngồi chơi, líu lo tiếng Mỹ, ông bác cả ra nhắc to: “Speak Vietnamese only!” thì thằng cháu con của một cô em tôi khi đó mới khoảng mười tuổi đứng ngay lên, tay chỉ vào đám “cousins”: “Người Vịt phải nói tiếng Vịt!” làm cả nhà cười bò, ông cụ quay qua nói với ông anh tôi: “Đúng là ông bác gà tồ!” và phì cười vì bác nhắc cháu mà chính bác lại nói tiếng Anh. “Gà Tồ” là bí danh của ông anh cả khi còn nhỏ.

Cha tôi rất quan tâm về học vấn và luôn nhắc nhở chúng tôi “tiên học lễ, hậu học văn”. Nhà đông con, lại là một bầy nhiều con gái, cha tôi muốn các con của ông phải tốt nghiệp đại học để có thể tự lập về tài chánh, sau này khi lập gia đình không phải quá lệ thuộc vào nhà chồng. Về nghề nghiệp ông cũng cho các con tự do lựa chọn theo ý thích để trong tương lai anh em sẽ họp thành một xã hội nhỏ với đủ ngành nghề hầu có thể hỗ trợ cho nhau. Ông luôn nhắc nhở con cháu là con người phải sống có đạo đức, lương tâm và trách nhiệm. Những lời giảng dậy của ông như in vào tâm trí chúng tôi.

Cứ thế, mỗi năm chúng tôi sống với nhau dưới một mái nhà ba ngày liền tại Lake Tahoe. Ngoài bữa “Thanksgiving Dinner” chính với đầy đủ những món ăn đặc biệt cho ngày lễ: gà tây, thịt nguội, roast beef, khoai nghiền, đậu ve, cranberry sauce, salad, pumkin pie... nhà lúc nào cũng có một nồi phở thật lớn trên bếp và đồ ăn, bánh trái ê hề.

Sau mỗi bữa ăn, anh chị em quây quần quanh chiếc bàn dài chuyện trò, tán dóc như ngày xưa còn bé. Có những năm tuyết trắng xóa, cả nhà ngồi bên lò sưởi bập bùng, ngắm tuyết rơi... không ngờ có ngày mình đã được sống trong cảnh thần tiên như thế.

Đến năm 2014, vì duyên may, cô em út của chúng tôi thấy một toà nhà lớn ở Colfax, miền bắc Cali quảng cáo “on sale”, nhà hai tầng rộng 9,000 square feet, có 15 phòng ngủ với nhà vệ sinh tiện nghi, nhà bếp và phòng ăn rộng rãi thoáng mát chứa được năm đến sáu chục người, toạ lạc trên một khu đất rộng hơn mười mẫu mà ngày trước từng là một “senior – home”. Nghĩ tới Đỗ Gia Trang, nhớ đến nguyện ước của bố, cô Út đã mua và đem hết “saving” ra tân trang thành một căn “vacation home” có một không hai và hãnh diện vẽ bảng “Đỗ Gia Trang” treo ngay lên cổng vào tòa nhà. Thế là từ đó, Đỗ gia Trang- Colfax đã trở thành nơi tụ họp cố định coi như nhà tổ để cứ mỗi muà Thanksgiving là con cháu Đỗ Gia từ khắp mọi nơi lại “tung cánh chim tìm về tổ ấm”.

Theo thời gian cha mẹ tôi lần lượt quy tiên, ông anh cả và một cô em gái cũng đã ra người thiên cổ. Thế nhưng, tre già thì măng mọc, lá vàng rơi thì cây non lại đâm chồi. Mỗi năm lại thêm mấy đứa bé ra đời, Đỗ Family ngày càng thêm đông. Đến nay tổng cộng đã hơn 60 thành viên. Mấy cô em tôi phải vẽ ra một “Family Tree” để mỗi khi gặp nhau lại đem ra làm màn đố vui cho bọn trẻ biết đến liên hệ họ hàng.

Ngày họp mặt Thanksgiving mỗi năm chúng tôi lại nhắc nhở và tri ân ông bà. Ông Bà như tổ tiên của dòng họ Đỗ trên miền đất mới. Nhờ ông bà khuyến khích mà con cháu giữ được ngày truyền thống đáng quý này. Cám ơn đất nước Hoa Kỳ, quê hương thứ hai đã cưu mang chúng tôi và cho chúng tôi cơ hội vươn lên, thành đạt, có một cuộc sống an bình, một tương lai phơi phới. Chúng tôi nhắc đến những người đã khuất, thêm tên thành viên mới. Xem lại những kỷ niệm cũ qua những hình ảnh, video để các người mới gia nhập vào đại gia đình như các cháu dâu, cháu rể và các chắt của ông bà biết về nguồn cội. Ban ngày thì từng nhóm có những sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi. Tối đến có màn văn nghệ cho mọi người thi thố tài năng và sau đó lập sòng tại chỗ cho mấy người lớn sát phạt nhau, dù ăn thua chỉ vài chục bạc nhưng lọt sàng xuống nia, ở nhà vui cười, đùa giỡn với nhau chứ không đi cúng cho casino bên ngoài!

Thấm thoắt thế là một năm đã trôi qua, bây giờ đã bước sang Tháng Mười Một của năm 2021 chị em chúng tôi lại bàn nhau cho Thanksgiving năm nay. Chúng mình có rủ nhau về tụ họp ở Đỗ Gia Trang không?
Những người lớn đã chích ngừa Coronavirus đủ ba lần, tất cả đã chích ngừa cúm, chỉ còn trẻ con dưới 12 chưa được chích ngừa SARS-CoV2. Sự đe dọa của Covid khiến mọi người vẫn ngơm ngớp lo lắng, lại thêm những biến thể nguy hiểm của con vi khuẩn khiến còn những ngại ngùng.

Bạn tôi có một ông bác năm nay sinh nhật 110 tuổi vào Tháng Sáu, lúc cơn dịch đã giảm và mọi người đã được chích ngừa đủ hai mũi vaccine, sự đi lại cũng được nới lỏng nên con cháu từ khắp các tiểu bang quyết định cùng về thăm cụ để chúc mừng Đại Thọ. Nào ngờ sau cuộc họp mặt hơn bốn mươi người đó khi về lại nhà thì 12 người bị dương tính với Coronavirus kể cả cụ ông. May mắn là cụ ông bị nhẹ nhất nên chỉ bị cách ly tại nhà còn những người kia phải uống thuốc và sau hai tuần cũng mạnh khỏe và bình phục hoàn toàn. Nghe chuyện cũng ớn quá!

Hơn 4 giờ chiều trời vẫn xám buồn, những vạt nắng vàng hanh còn đi trốn. Tôi ngồi đây bâng khuâng thả hồn về ngày tháng cũ. Nhớ lại những ngày đầu mùa dịch. Khi có lệnh giới nghiêm mọi người phải ở yên trong nhà, không khí thê lương, hoảng sợ bao trùm. Nhìn đâu cũng như thấy những con vi khuẩn lơ lửng bay. Ở trong nhà mà ngày nào tôi cũng lấy Clorox lau chùi cẩn thận từ cái chốt nắm tay cửa đến mặt bàn và hễ cứ ra vào là phải rửa tay thật kỹ bằng thuốc sát trùng.

Sau vài tháng không ra tới cửa nên gần như ai cũng biếng để ý tới dung nhan, tóc tai lởm chởm nửa trắng nửa đen, quần áo lôi thôi, lếch thếch. May là còn phone, còn internet nên bạn bè vẫn còn liên lạc tán dóc với nhau. Một ngày tôi còn cuộn mình trong chăn, giường gối còn bừa bộn ngổn ngang thì một bà bạn bên Texas gọi phone, chả biết sao đụng nhầm nút facetime, cả hai đứa cùng rú lên rồi cười khanh khách khi thấy hai mụ già đối diện nhau... hahaha... tao nhìn mày tao mới thấy tao! Sao mình già thế!

Cô con gái phone hẹn sang đưa mẹ mấy cái khẩu trang đẹp mà một người bạn mới tặng, vài món thịt cá và rau tươi mới đi chợ về, vừa mở cửa ra cô đã thốt lên:
_ Sao tóc mẹ bạc phơ thế, mẹ ăn mặc bê bối quá trông mẹ già sộc hẳn đi. Mẹ chịu khó nhuộm tóc, ăn mặc đàng hoàng như mọi khi đi.
Vào tự nhìn mình trong gương cũng thấy dung nhan sầu thảm thật. Mình tự nghĩ cả ngày ở nhà có đi đâu mà phải sửa soạn, quanh qua nhìn lại cũng chỉ có hai ông bà già nhìn nhau.
Thằng con Út mới khôi hài, cháu mới ra trường đang tìm việc làm, text cho cả nhà khoe hôm nay interview online, nửa trên bảnh chọe còn khi đứng lên thì nửa dưới chàng vẫn để nguyên cái quần xà lỏn!
Ngoài những điều không vui về muà dịch cũng có những khía cạnh lạc quan. Gia đình gần gũi nhau hơn, có nhiều thì giờ với nhau hơn, có những bữa cơm gia đình cả nhà quây quần và mấy bà mẹ trẻ chịu khó nấu nướng hơn. Bọn già chúng tôi thì bầy nhau ủ giá, tráng bánh cuốn, đổ bánh xèo, làm bánh dầy, bánh rợm... Con cháu không dám sang nhà ông bà thì bà chỉ gọi cho biết rồi nói sang nhà bà lấy, bà để sẵn trước cửa.

***
Hai ngày vừa qua mưa gió lê thê. Hôm nay bầu trời sáng, những vạt nắng vàng hanh bao phủ cảnh vật đem tươi vui đến muôn loài, tôi khoác chiếc áo len mỏng ra sân sau hưởng chút nắng ấm. Dạo này buổi sáng tôi thường nghe một buổi nói chuyện của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hoặc một buổi pháp thoại của Thầy Pháp Hòa, tôi thấy tâm thật thanh thản an bình. Tôi nhớ nhiều đến những lời dặn dò của cha tôi khi chúng tôi mới lớn “ Hãy là một viên gạch tốt. Mỗi đơn vị gia đình của các con hãy cố gắng là một viên gạch tốt, tất cả đều là gạch tốt thì xã hội, quốc gia sẽ là một ngôi nhà vững bền, đẹp đẽ, hoàn hảo”

Tôi nhớ, thật nhớ đến những ngày Thanksgiving tụ họp đại gia đình. Ước mong sao năm nay chúng tôi có thể tụ về đông vui được như những năm trước. Từng khuôn mặt các em, các con, các cháu hiện lên rõ nét. Cô em thứ mười của tôi với chương trình “Ước Mơ Việt” nếu gặp được các cháu, học trò của bà trẻ bằng xương bằng thịt mà khảo bài thay vì qua zoom thì vui biết mấy. Cô em thứ tám đang vui với buổi văn nghệ “Muà Thu Cho Em” thành công rực rỡ dù nạn dịch chưa hết có thể gặp chị em mà kể những kỷ niệm đằng sau hậu trường thì chị em lại ríu rít với nhau. Chồng của cô em kế tiếp tôi, chủ tịch Hội CVA miền bắc Cali cũng đang vui với sự thành công của ĐHCVA toàn cầu năm nay được tổ chức tại San Jose có dịp chia sẻ niềm vui trực tiếp với cả đại gia đình...

Thanksgiving là mở đầu cho mùa lễ hội, mùa của tình yêu thương và sự chia sẻ. Xin mọi người hãy dừng lại, hãy nhìn vào bản thiện và lòng nhân trong mỗi chúng ta để khép lại những hỉ nộ ái ố của năm, tháng vừa qua. Hãy hàn gắn những rạn nứt trong tình cảm gia đình, bạn bè... nếu đã lỡ xảy ra, trước khi quá muộn. Hãy cùng người thân hưởng thụ một mùa lễ Tạ Ơn thật đúng nghĩa dù vẫn còn trong hoàn cảnh khó khăn vì đại dịch. Happy Thanksgiving đến tất cả mọi người, mọi nhà!

Đỗ Dung
Thanksgiving 2021

Thứ Ba, 19 tháng 11, 2024

Mừng Thánh Tử Đạo Việt Nam - Nhạc Sĩ: Liên Bình Định - Ca Đoàn Sao Mai


Nhạc Sĩ: Liên Bình Định
Ca Đoàn; Sao Mai

Mùa Thu Chết


Nhặt mãi làm chi lá thu vàng
Mùa thu đã chết lửa nhân gian
Trong ngăn tim nhỏ trơ xương lá
Mộng tưởng tàn phai biết trái ngang

Đời đã vào thu lạnh tiếng cười
Có còn không thoáng nét xuân tươi
Buông xuôi năm tháng theo ngày tháng
Ngôi rẽ đường ngôi lược biếng lười

Đã mấy đêm trường đã mấy thu
Vầng trăng thiếu phụ mảnh trăng lu
Đẫm đôi mi lệ sương thu lạnh
Chiếc bóng lưng đơn lối mịt mù

Kim Phượng


19 - 11 - 2011



19 - 11 lại về
Tim em quặn thắt ê chề nhớ anh
4 năm mới đó qua nhanh
Thu đi thu đến buồn quanh nơi này
Em như chiếc lá úa gầy
Anh đi bỏ lại một ngày thê lương
Cả nhà ủ rũ tang thương
Thương anh đã hết vấn vương chuyện đời
Chúng em cảm tạ ơn Trời
Đã cho anh sống một thời bình an
Gia đình ta khổ lầm than
Anh luôn đem đến chứa chan thâm tình
Luôn luôn che chở em mình
Rồi quên tuổi mộng lặng nhìn ngày qua
Bây giờ anh đã đi xa
Em ngồi viết với thiết tha trong lòng ...
Anh ơi! em muốn ngược dòng
Để tìm cái nghĩa vợ chồng hộ anh
4 năm thoáng chốc qua nhanh
Đời như sương khói mỏng manh nhẹ nhàng
Em đây mong ước nồng nàn
Anh vui trên nước Thiên Đàng cầu xin
Xin cho em giữ đức tin
Để được theo Chúa đóng đinh mỗi ngày

Đỗ Hữu Tài


Thái Tang Tử - Chu Đôn Nho 采桑子 - 朱敦儒

 

采桑子 - 朱敦儒 Thái Tang Tử - Chu Đôn Nho

彭浪磯 Bành Lãng Ky

扁舟去作江南客, Thiên chu khứ tác giang nam khách,
旅雁孤雲。 Lữ nhạn cô vân.
萬里煙塵。 Vạn lý yên trần.
回首中原淚滿巾。 Hồi thủ trung nguyên lệ mãn cân.

碧山對晚汀洲冷, Bích sơn đối vãn đinh châu lãnh,
楓葉蘆根。 Phong diệp lô căn.
日落波平。 Nhât lạc ba bình.
愁損辭鄉去國人。 Sầu tổn từ hương khứ quốc nhân.

Chú Thích


1- Thái tang tử 採桑子: tên từ bài, tên khác là “Xú nô nhi 醜奴兒”, “La phu mị 羅敷媚”, gồm 44 chữ, đoạn trên và đoạn dưới đều có 3 bình vận. Toàn bài không đổi vận. Cách luật:

X B X T B B T cú
X T B B vận
X T B B vận
X T B B X T B vận

X B X T B B T cú
X T B B vận
X T B B vận
X T B B X T B vận

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

2- Bành lãng ky 彭浪磯: địa danh, tại Bành Trạch huyện 彭澤縣, tỉnh Giang Tây 江西, TH, nơi tác giả làm bài từ này.
3- Thiên chu 扁舟: chiếc thuyền nhỏ.
4- Giang nam khách 江南客: người khách ở Giang nam.
5- Lữ nhạn 旅雁: chim nhạn trên đường đi xa.
6- Yên trần 煙塵: khói và bụi.
7- Hồi thủ trung nguyên 回首中原: nhìn về phía bắc nước TH.
8- Đinh châu 汀洲: cồn cát ở giữa sông hay ven sông.
9- Nhật lạc 日落: mặt trời lặn.
10- Ba bình 波平: mặt nước phẳng lặng không có sóng.
11- Sầu tổn 愁損: sầu thương, sầu chết đi được.
12- Từ hương 辭鄉: rời bỏ quê hương.
13- Khứ quốc 去國: đi sống ở xứ khác.

Dịch Nghĩa

Ghi chú của tác giả: (làm tại) Bành Lãng Ky.

Ngồi chiếc thuyền con đi làm người khách đất Giang nam,
Như đàn nhạn trên đường di cư và đám mây trôi nổi đơn độc.
Xuyên qua vạn dặm đường khói bụi.
Quay đầu nhìn về trung nguyên thì rơi nước mắt ướt khăn.

Núi xanh đối diện với bãi sông buổi chiều lạnh lẽo,
(Đầy) lá phong và rễ vi lau.
Ngày tàn trên mặt nước sông bình phẳng.
Người rời bỏ quê hương đi xứ khác sầu thương vô hạn.

Phỏng Dịch

1 Thái Tang Tử - Ly Hương Khứ Quốc

Thuyền con làm khách Giang Nam lạ,
Nhạn lướt mây trôi.
Muôn dặm sương phơi.
Trung thổ quay đầu lệ tả tơi.

Núi xanh chiều tối bờ sông lạnh,
Lau lách rừng cây.
Sóng lặng ngày rơi.
Khứ quốc ly hương sầu hại đời.

2 Ly Hương Khứ Quốc


Con thuyền vượt sóng Giang Nam,
Bơ vơ mây nổi nhạn đàn bay xa.
Dặm trường gió bụi yên ba,
Nhìn về trung thổ bao la lệ tràn.

Núi xanh bãi lạnh chiều sang,
Lá phong lau lách nắng tàn trên sông.
Người đi khứ quốc nát lòng,
Ly hương mấy buổi mênh mông cõi sầu.

HHD 
09-2021
***
Bành Lãng Ky

1-
Làm khách Giang Nam trên thuyền nhỏ
Mây lẻ, nhạn đàn
Khói bụi, dặm ngàn
Quay lại trung nguyên lệ đẫm khăn

Chiều núi biếc đối cù lao lạnh
Phong đỏ, lau cằn
Sông lặng, ngày tàn
Bỏ quê sầu khổ kẻ vong thân!

2- Bỏ quê

Giang nam làm khách, thuyền con
Xuôi nam đàn nhạn, mây vờn lẻ loi
Dặm ngàn khói bụi đầy vơi
Trung nguyên quay lại lệ rơi khăn đầy

Chiều núi biếc, đối bãi lầy
Lá phong đỏ rụng, lau lay rễ cằn
Sông im nắng tắt ngày tàn
Bỏ quê sầu khổ vong thân xứ người!


Lộc Bắc
Nov24

Vinh Danh Anh Hùng Tử Đạo


VINH CA ANH HÙNG TỬ ĐẠO là bài thánh ca thể loại hợp xướng tôi sáng tác để ca ngợi và tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam sau khi tham dự Thánh Lễ Đại Trào khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện – Tổng Giáo Phận Hà Nội.

Cách đây 12 năm vào sáng sớm tinh sương ngày 24 tháng 11 năm 2009, tiếng chuông nhà thờ reo vang báo hiệu một ngày hội đang diễn ra tại nơi đây. Từng đoàn người chen chúc trên những con đường dẫn đến Trung Tâm – nơi sẽ diễn ra ngày Hội và Thánh Lễ Đại Trào kính CTTDVN – cũng là ngày Khai Mạc Năm Thánh và cũng là dịp kỷ niệm và hồi tưởng lại 350 năm thành lập hai giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài (1659 – 2009), đồng thời kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam (1960 – 2010)

Tôi và Giáo sư Nhạc sĩ Phạm Đức Huyến hân hạnh được Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt mời về Việt Nam để lo phần Thánh Nhạc trong dịp này.

Gần hai ngàn ca viên được tuyển chọn khắp nơi thuộc các giáo xứ của TGP Hà Nội và các Dòng tu, cùng với các nhạc công để hát cho Thánh Lễ Đại Trào hôm nay. Người ta cho biết có trên ba trăm nghìn giáo dân cùng với các dòng tu, tu sĩ, linh mục và các giám mục khắp Việt Nam cũng như hải ngoại về tham dự. Một rừng người hiện diện với cờ xí, băng lọng rực rỡ tươi thắm dưới ánh mặt trời ban mai bởi muôn màu muôn sắc của đồng phục thuộc các giáo xứ, các hội đoàn trên một cánh đồng bao la bát ngát mà tầm mắt con người dõi theo tưởng như vô tận.

Đây là một sự kiện lịch sử lớn nhất từ trước tới nay của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, và tôi cho đây là ngày “Trẩy hội lên đền” của con dân Công giáo Việt Nam toàn quốc, nhất là người Công giáo thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội mà nhân tố đầu tiên để có ngày hôm nay, đó chính là do tổ tiên cha ông của chúng ta đã hy sinh lấy mạng sống của mình làm hạt giống đức tin gieo vãi trên mảnh đất thân yêu Việt Nam.

Vâng, hôm đó như là ngày đất trời mở hội hân hoan, vì bao trăm năm gian nan trôi qua và giờ đây là ngày của vinh thắng, của trăm ngàn bông hoa rực rỡ tươi thắm, là ánh sáng vinh quang vô tận cho muôn thế hệ Việt Nam mãi huy hoàng.

Vì: Mỗi hạt giống gieo xuống, sẽ có ngàn bông lúa trổ bông, và mỗi chiếc đầu rơi xuống, là một trang sử vinh quang được mở ra.

Lời của Thánh Vịnh 125 đã được khắc ghi trong niềm tin của Kitô hữu rằng:

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” hay là “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng”.

Từ dòng máu anh hùng của tổ tiên; từ những khổ đau và đắng cay của tù đày và chết chóc… Với một đức tin cùng một lời thề, các ngài trung kiên tiến lên! Hàng hàng lớp lớp tiến lên để hiến dâng cho một cuộc tình.

Nhân ngày lễ kính CTTĐVN, tưởng chúng ta cũng nên sơ lược ghi nhớ lại những trang lịch sử oai hùng đó.

Từ buổi sơ khai cách đây gần 500 năm, thì Tin Mừng được gieo vào mảnh đất Việt Nam. Nhưng hết 300 năm bị các vua chúa phong kiến bách hại. Cuộc bắt bớ kéo dài bởi 53 sắc chỉ cấm đạo bắt đầu từ những năm 1625 - thời chúa Sãi - Nguyễn Phước Nguyên, và xuyên suốt mãi đến những thế kỷ sau này. Khốc liệt nhất là ở giai đoạn thế kỷ XIX - thời của các triều đại Nhà Nguyễn cai trị bởi các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.

Quả thật, đây là một trang sử đầy nghiệt ngã và bi đát của dân tộc Việt Nam, mà Giáo Hội Việt Nam gánh chịu trong hoàn cảnh này. Bởi vì: chính người Việt tàn sát người Việt.

Thay vì phải yêu thương nhau bởi chúng ta cùng một nguồn cội, cùng một dòng máu màu da, nhưng lại quay mũi dao lưỡi kiếm, dơ cao mã tấu loại trừ nhau chỉ vì lòng bảo thủ, hẹp hòi và kỳ thị của vua quan thời bấy giờ theo suy nghĩ của tôi.

Dẫu đã qua hơn một thế kỷ, và dẫu thời gian cũng đủ để bình thản, nhưng sao lòng mình vẫn cảm thấy hãi hùng kinh hoàng, tâm mình vẫn nhức nhối đớn đau.

Chỉ vì một niềm tin, mà trên đời này thì đó là quyền tối thượng (Human Right) rất căn bản cho mỗi cá nhân. Thế nhưng vì niềm tin cá nhân đó, các ngài đã bị tước đoạt, bị nhục hình và cuối cùng phải bị chết.

Các ngài đã chấp nhận đau đớn và phải gục ngã chịu chết qua nhiều cực hình mà người ta nghĩ ra rất ghê sợ và dã man dưới những bàn tay tàn bạo của mã tấu, làn kiếm, bá đao, tùng xẻo, siết cổ, chém bay đầu, ngựa xéo phanh thây, lửa nung, gông cùm và rũ tù…

Chính vì cái chết của các ngài và điều đó là một chứng minh, là lời nói xác quyết cho đức tin của mình mà không một thứ gì có thể lay chuyển.

Rất đơn giản và dễ hiểu, vì nếu những cuộc bách đạo đó trước đây là đúng, là thành công, là thuận ý Trời…, thì làm sao có Giáo Hội Việt Nam hiện hữu và mở mang như hôm nay, phải không ?

Chúng ta tin tưởng số người trung kiên giữ vững đức tin và đã tử vì đạo thời bấy giờ có thể trên 100,000 nghìn người, mà không chỉ giới hạn con số chính thức là 117 vị. Tuy nhiên, Giáo Hội luôn duy trì sự cẩn trọng để tuyên thánh hầu tránh đi mọi lạm dụng có thể xảy ra.

Qua các thủ tục điều tra hơn một thế kỷ, các vị ấy được Giáo Hội nhìn nhận bắt đầu từ bậc Đấng đáng kính, tiếp đến là nâng lên hàng Chân Phước. Cuối cùng là được tuyên phong lên bậc Hiển Thánh với lễ kính được cử hành ở khắp Hoàn Vũ. Và trong 117 vị chứng nhân tử đạo đó đã được tuyên phong Chân Phước lần lượt trải dài theo từng giai đoạn dưới những triều đại của các Đức Giáo Hoàng qua bốn đợt sau đây:

- Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII tuyên phong 64 vị
- Đức Giáo Hoàng Pi-ô X tuyên phong 8 vị vào năm 1906, và 20 vị vào năm 1909
- Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tuyên phong 25 vị vào năm 1912
- Tổng cộng tất cả 117 vị, và đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong hiển thánh vào ngày 19 tháng 06 năm 1988.

Các ngài là những hạt giống phải thối đi, để giờ đây những hạt giống đó được trổ sinh hàng ngàn bông lúa. LỜI của Đức Kitô đã nói trước đây hơn hai ngàn năm bởi đã thấy trước cho mỗi thân phận bước theo Ngài:

“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình”.

Quả thật, đây là một câu nói mang tính minh họa nhưng rất sâu sắc và ý nghĩa, chứa đựng một chân lý thần học của sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu để Giáo Hội được hiện hữu hôm nay mà hầu như chúng ta ai cũng cảm nhận và thấu hiểu trọn vẹn.

Hãy hình dung người làm nông khi gieo hạt lúa giống xuống, nếu hạt giống ấy không thối đi trong bùn đất thì làm sao nảy mầm được, và vì thế nó chỉ “trơ trọi một mình” mà chẳng sinh ích lợi gì. Trong khi sự hiện diện của chúng ta trong cuộc đời này có ảnh hưởng cách này hay cách khác đối với những người bên cạnh, trong cộng đoàn, trong xã hội… Chắc chắn ý Chúa muốn thế, vì hạt giống có giá trị chỉ khi chính nó được nảy mầm và sinh hoa kết trái. Trong khi người Kitô hữu có được phẩm giá cao quý qua đời sống đức tin chỉ khi chấp nhận và hy sinh từ bỏ chính mình để phục vụ cho sự sống, cho chân thiện mỹ.

“Trơ trọi một mình” nghĩa là vị kỷ, là tiêu cực, là ích kỷ…, và vì thế không có ích gì cho kẻ khác.

Linh mục Nhạc sĩ Phương Anh đã khai triển trên dòng tư tưởng này để dệt nên bài thánh ca Hạt Giống Tình Yêu, rằng:
“Nếu quả tim nào nơi dương thế không biết yêu không biết thương, thì nó cũng chỉ trơ trọi một mình mà thôi”.

Nói đến quả tim, cũng có nghĩa đang đề cập đến tình yêu, mà tình yêu thì cần phải có đối tượng, bởi không ai có thể yêu khi chỉ một mình (!)

Nếu sau này được Chúa thương đưa ta về nước trời, Ngài sẽ hỏi: “Em người đâu?”. Thế nên chúng ta còn có trách nhiệm và bổn phận mang cả một cộng đồng dân Chúa về trình diện Ngài.

Vâng, CTTĐVN đã sống, đã yêu, và đã nêu cao giá trị cao cả và siêu nhiên đó. Vậy, xin hỏi các ngài, họ là ai?

Thưa, họ là những người như chúng ta, cũng biết thương biết nhớ, biết đau biết khổ, cũng biết yêu sự sống và sợ hãi trước cái chết…, và cuối cùng họ đã vượt qua sự sợ hãi đó để làm chứng và chết cho cho Thiên Chúa.

Các ngài đều thuộc mới thành phần: 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân. Ngoài các giám mục và linh mục, các ngài thuộc mọi từng lớp giai cấp trong xã hội gồm từ dân thường đến quan chức, từ đội binh đến tu sĩ như thầy Khang, chú Bột... Các ngài cũng là những viên chức ngoài đời như Thánh Tử Đạo Hồ Đình Hy là quan thái bộc, Thánh Tử Đạo Phạm Trọng Khảm là quan án, Thánh Tử Đạo Vinh Sơn Tường làm chánh tổng, Thánh Tử Đạo Nguyễn Huy Mỹ làm lý trưởng, hay Thánh Tử Đạo Đích là ông trùm nhà thờ. Hay là những quân nhân như Các thánh Thể, Huy, Đạt. Có người làm thầy thuốc, nhà buôn, thợ mộc, thợ may, ngư phủ hay nông dân… Cũng có những phụ nữ chân yếu tay mềm như bà Thành mà chúng ta gọi là thánh Đê.

Hãy nghe qua một vài đối đáp của các ngài khi bị thẩm vấn. Những lời nói rất chân thành nhưng rất thẳng thắn và cương quyết để giữ trọn niềm tin của mình qua câu nói của Thánh Linh mục Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh sau đây:
“Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”.

Hãy học sự tha thứ của Thánh Tử Đạo Emmanuaen Lê Văn Phụng – Trùm trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao Giêng, đã nói lời trăng trối với con trai của mình tại pháp trường:
“Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé”

Hãy học sự can đảm và hiên ngang từ bỏ những hứa hẹn danh vọng nơi trần thế của một chàng trai tuấn tú vừa tròn 18 tuổi, là Thánh Tử Đạo Tôma Thiện trước quan tòa sau đây:
“Tôi chỉ mong chức quyền trên trời chứ không màng danh vọng trần thế”

Sau khi vua Tự Đức dụ dỗ giả vờ bước qua hai thanh gỗ tượng trưng cho thánh giá, Thánh Tử Đạo Micae Hồ Đình Hy thưa rằng:
“Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô”

Cuối cùng, Thánh Tử Đạo Micae Hồ Đình Hy chấp nhận cái chết rất bình thản. Trước khi chịu chém, ông xin hút một điếu thuốc – hương vị cuối cùng của trần gian ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên quốc vĩnh cửu.

Dân tộc và tôn giáo nào cũng đều có các vị anh hùng được gọi những danh hiệu khác nhau. Kitô giáo có hàng ngũ các thánh – những tôi tớ trung thành của Chúa. Một điều chúng ta tin tưởng là các Thánh Tử Đạo Việt Nam không liều lĩnh và không tự tìm đến cái chết như tự thiêu, tự mổ bụng, tự thắt cổ, tự cắn lưỡi, tự đập đầu, tự ôm bom tự sát để trung thành với đạo hay được trọng thưởng này nọ trên trời.

Hầu như các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị hạch tội hay thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, tất cả đều không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ hại mình. Suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan, hay những lời tâm sự với người thân của mình, chúng ta thấy được sự thánh thiện toát ra nơi con người của các ngài. Các ngài cam lòng chịu chết mà không oán hận, bởi vì kẻ nào nuôi lòng hận thù thì không thể làm thánh và không xứng đáng là môn đệ của Đức Kitô – Đấng đã đã dạy:
“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình”

Hãy nghe lời phân tích và lý giải về Máu các Thánh Tử Đạo Việt Nam của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt sau đây:
“Thánh lễ hôm nay đỏ một màu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam”

Ngài nhẹ nhàng ôn tồn nói tiếp:

“Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là những thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì xuất phát từ tình yêu cao quý. Máu dường như tỏa hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu”

Ngày trước trong thời bách đạo, hành động bước qua thập giá là dấu hiệu cho biết người đó bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm con người, xúc phạm, gây tổn thương thanh danh người khác, giết người, phá thai, gian dối, hận thù, nói hành nói xấu… thì cũng là hình thức từ chối bỏ đạo, có phải thế không?

Sống tử vì đạo không chỉ tổ tiên của chúng ta xưa kia, mà hôm nay người Ki-tô hữu tử đạo qua nhiều cách thức khác nhau trong đời sống.

Quả thật trong xã hội hôm nay, đang tạo ra những cơn bách đạo qua nhiều hình thức khác nhau rất tinh vi. Nếu không vững vàng và khôn ngoan, ta dễ bị ngã gục.

Đứng trước nhu cầu về vật chất và đồng tiền, về thú vui trần tục, quyến rũ và đam mê… Người Công Giáo muốn trung thành và sống theo Phúc Âm, hẳn phải có một lựa chọn không hơn không kém.

Tôn vinh CTTTĐVN, là nêu cao tinh thần sống đạo không những của các ngài xưa kia, mà còn cho chúng ta trong đời sống đức tin hôm nay. Người công giáo Việt Nam nối tiếp những bước chân của các ngài đã hằn in dấu làm chứng nhân cho tình yêu của Đức Kitô trong thời đại hôm nay đó là: trao ban tình thương, chia xẻ hơi ấm đến những người bất hạnh, đem tin yêu đến cho tha nhân, sống lương thiện, không thỏa thuận với các tệ nạn, không đồng lõa với sự dữ, chống gian tà, thoát hận thù…

Nhân ngày lễ kính CTTĐVN, xin được chia xẻ bài hợp xướng VINH CA ANH HÙNG TỬ ĐẠO với những hình ảnh sống động tại Sở Kiện trong những ngày khai mạc Năm Thánh của Giáo Hội Việt Nam ngày 24 tháng 11 năm 2009 theo youtube sau đây:


Văn Duy Tùng


Thứ Hai, 18 tháng 11, 2024

Kinh Chiều

 
Thơ: Hàn Thiên Lương
Trình Bày: Tố Lan


Biết Ngày Nào!

 
(Tranh: Họa Sĩ Đặng Can)

Biết ngày nào đưa Em lại quê xưa
Mấy hàng tre xanh mướt , những hàng dừa
Con đường nhỏ quanh co về quê Nội
Ngoại bên sông da diết mấy cho vừa!

Vẫn tình người mới quan trọng đó Em
Hãy thương nhau, thương nhé những êm đềm
Đêm trăng sáng tung tăng trên phố cổ
Chị Hằng Nga xa tít mộng mơ thêm

Hẳn là mơ một ngày thật sáng tươi
Cho mai sau những lứa tuổi đôi mươi
Giàu tri thức và thêm giàu tình tự
Yêu quê hương chân chính tấm lòng người!

Cũng mong sao Em mãi mãi xinh xinh
Mặc thời gian đeo đuổi bóng với hình
Mặc khổ đau đã hằn in nên vết
Quê hương ơi, sao khốn khó điêu linh!

Cầu chúc Em hãy yên ổn phương xa
Nói ngần nao cho hết tấm tình mà....
Viết bao nhiêu là tròn đầy tâm tưởng
Hãy thương nhau với tình thương ...bao la!

Thiên Phương 
(Nov 20, 2020)