tiêu đề Nhãn
- BIÊN KHẢO
- CÂU ĐỐI
- CỔ THI
- GIA CHÁNH
- GIẢI TRÍ
- HÌNH ẢNH HỘI NGỘ
- HÌNH ẢNH NAY
- HÌNH ẢNH XƯA
- HỘI HỌA
- KHOA HỌC
- LỊCH SỬ
- LỜI HAY Ý ĐẸP
- LƯU NIỆM
- NHẠC
- SỨC KHOẺ
- SƯU TẦM
- THƠ
- THƠ CẢM TÁC
- THƠ DỊCH
- THƠ DIỄN NGÂM
- THƠ NHẠC
- THƠ PHỔ NHẠC
- THƠ SƯU TẦM
- THƠ TRANH
- THƠ TRANH NGHỆ SĨ
- TIN BUỒN
- TIN VUI
- VĂN
- VŨ HỐI THƯ HỌA
- VƯỜN THƠ VIÊN NGOẠI
- XƯỚNG HỌA
- YOUTUBE
Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2025
Để Trả Lời Một Câu Hỏi - Trúc Phương - Kim Phượng (Canada)
Vân Thanh
Trời cuối thu mưa lạnh.
Bao hoa-lá trên cành,
Bỗng xanh như màu lá.
Nét mặt hiền như lụa.
Đôi mắt sáng trăng sao.
Mình gặp nhau thủa nào?
Tiền-duyên hay kiếp trước?
Nguyện-ước tưởng đã thành.
Ai ngờ quá mong-manh.
Phút-chốc thành dang-dở.
Tiêu-tan giấc mộng lành.
Ngày chia tay buồn-bã.
Cả tuần mưa tầm-tã.
Từng hạt rơi từng hạt.
Gió lạnh buốt hồn tôi
Xuân Nhớ
Vùng cao giá lạnh tuyết chưa tan
Cành khô trụi lá mừng Xuân đến
Đón Tết ngày xưa rộn cả làng
Quê người vui Tết thiếu mai vàng
Thiếu cả ân cần, lẫn hỏi han
Nỗi nhớ thương nhà luôn réo gọi
Mơ ngày quê Mẹ đẹp mùa Xuân
Tiếng pháo giao thừa thêm vắng lặng
Cành nêu trước ngõ tìm đâu ra
Xuân này, Xuân nữa bao nhung nhớ
Đất khách người vui ...bỗng lệ nhòa
Bếp lửa Mẹ ngồi nấu bánh chưng
Xa xa tiếng pháo nổ đì đùng
Người vui đón Tết chào Năm mới
Ly rượu khai Xuân, nhạc réo mừng
Áo lụa giờ đây đã bạc mầu
Chiều ba mươi Tết nỗi lòng đau
Lòng như héo úa theo ngày tháng
Rượu uống chưa say lại thấy sầu
Xuân nào em nhỉ mình bên nhau ?
Đón Tết, vui Xuân của thuở nào
Đêm đón giao thừa vui nở rộn
Cầm tay khẽ nói: "đừng xa nhau"
Nguyễn Vạn Thắng
Chờ Xuân
Qua một chu kỳ, lại một năm!
Mùa Xuân Dân Tộc, vẫn xa xăm,
Tiếng trống Hà Hồi sao biệt tăm!
Năm hết, đã không lời tống biệt,
Nửa khuya trừ tịch choáng men say!
Bài thơ khai bút, buồn chưa viết,
Tọa thiền tư lự suốt đêm nay.
Tiếng pháo giao thừa đâu vọng tới,
Nghe như tiếng súng Tết Mậu Thân!
Dĩ vãng trở về riêng một cõi,
Bóng ai thấp thoáng, giữa đoàn quân?
Đoàn quân lầm lũi trong đêm tối!
Giầy saut đạp sỏi, như mưa rơi.
Tiếng chim đập cánh bay rất vội,
Lạnh lẽo sao trời đêm ba mươi!
Đường đến Pleiku sương mù mịt,
Hỏa châu như ánh mắt sao trời.
Không thấy đạn bay, mà gió rít,
Xuân về ngang tọa độ lưng đồi.
Đón một năm, mất hút nhiều năm,
Thời gian tàn bạo bước xăm xăm!
Chờ đón ánh hồng Xuân rực rỡ,
Chẳng lẽ đêm dài, đêm tối tăm!
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
Năm Tỵ Nói Chuyện Rắn
Đây không phải là một bài về sinh vật học nên tôi chỉ tóm tắt những chi tiết chính về loài rắn, những đặc điểm của chúng. Rắn là loài động vật bò sát, máu lạnh, ăn thịt, không có chân, thân tròn và dài, thuộc phân bộ (subordo) serpentes, có xương sống tới mấy trăm đốt, tùy theo chiều dài, nối với xương sườn ở phần thân. Da rắn có vẩy, xếp chồng lên nhau. Rắn lột da mỗi năm mấy lần, trẻ nhiều, gìa ít. Sọ của đại đa số các loại rắn có nhiều khớp nối khiến nó có thể nuốt con mồi lớn hơn đầu. Phần lớn các loại rắn chỉ có một phổi bên phải, phổi trái không có, hoặc rất nhỏ. Tim rắn có màng bọc, và di chuyển được để tránh bị tổn thương khi mồi quá lớn chạy qua thực quản.
Tôi học chương trình Việt, không rành sử và huyền thoại châu Âu, nên chỉ viết ngắn gọn về rắn:
1)Con rắn ở vườn địa đàng: Theo kinh thánh thì sau khi tạo dựng trời đất và muôn vật, Thiên Chúa lấy đất nắn thành hình người là Adam, để ở trong vườn địa đàng, cho ăn tất cả các loại trái cây trong vườn, trừ cây biết thiện và ác, (trái trí tuệ, hay trái cấm, hình như là trái táo). Thiên Chúa cũng lấy một xương sườn của Adam, tạo ra bà Eva, và 2 người thành vợ chồng. Trong các loài thú vật, RẮN quỷ quyệt hơn cả, đã dụ Eva và Adam ăn trái cấm nên bị phạt:
- Rắn: ngươi sẽ bò bằng bụng, ăn bụi đất suốt đời,(cái này không đúng) ngươi sẽ bị người đạp đầu, ngươi sẽ cắn chân người. -Eva: khổ khi mang thai, đau khi sinh đẻ, bị chồng cai trị (coi bộ sai)
- Adam: phải khổ nhọc suốt đời để kiếm ăn, khi chết thì về đất, vì ngươi từ đó mà ra.
2)Cléopatre: là một nữ hoàng rất nổi tiếng của Ai Cập, sinh năm 69 AC, chết năm 30 AC. Khi Ptolemy XII chết, ngôi truyền cho con là Ptolemy XIII 10 tuổi và Cléopatre VII 18 tuổi. Hình như hai chị em kết hôn sau đó. Bà này nổi tiếng vì nếp sống buông thả, là bồ của Julius Caesar, sau lại lấy Mark Antony. Khi thua La Mã, Antony tự tử bằng kiếm, Cléopatre thì để cho RẮN COBRA cắn chết.
3)Esculape: Theo thần thoại Hy Lạp, thì Esculape là một anh hùng của vùng Thessaly, là thần của y học. Ông là con của Apollon. Vì đã hồi sinh những người chết nên bị Zeus giết bằng cách cho sét đánh, và thành chùm sao Serpentaire, là chùm sao thứ 13 trong 12 chòm sao của cung Hoàng Đạo ở Bắc bán cầu, giữa Hổ cáp (Scor pion) và Nhân mã (Sagittaire). Gậy ESCULAPE là biểu tượng của ông, có hình một con rắn nước (couleuvre) quấn quanh một cây gậy, có sức chữa tất cả các bệnh, nên nhiều nước, trong đó có Việt Nam, dùng làm phù hiệu của ngành Y.
Xin đừng nhầm với Caducée, là biểu tượng của thần Hermes, gồm có một gậy bằng cây laurier, với 2 cánh, và 2 con rắn. Cái này chỉ chữa rắn cắn thôi.
NHỮNG CHUYỆN VIỆT NAM LIÊN QUAN TỚI RẮN:
1)Nguyễn Trãi và chuyện rắn báo oán: Đây là một huyền thoại, có lẽ ai cũng biết, nhưng sách vở, báo chí, Wikipedia…đều nói lung ung, không giống nhau. Tôi theo Tang Thương Ngẫu Lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, do Đạm Nguyên dịch, xuất bản năm 1970.
Ai cũng biết Nguyễn Trãi là công thần khai quốc của nhà Lê, giúp vua Lê Thái Tổ đuổi giặc Minh. Ông là tác giả bài Bình Ngô Đại Cáo rất nổi tiếng. Sách này gọi ông là Lê Trãi, vì ông có công, được ban quốc tính.
Khi chưa hiển đạt, ông dạy học ở làng Nhị Khê. Một hôm, ông bảo học trò, ngày mai ra dọn cái gò ở ngoài đồng để dựng nhà học. Đêm đó, ông nằm mơ thấy một người đàn bà đến nói: tôi còn yếu, con còn nhỏ, xin hãy thư cho 3 bữa để tôi kịp rời đi nơi khác. Sáng hôm sau, khi thức dậy, ông ra đồng xem thì thấy học trò đã dọn sạch cái gò. Họ nói đánh cụt đuôi một con rắn trắng, và lấy 2 quả trứng. Ông đem 2 quả trứng về nhà. Đêm đó, khi đang đọc sách, ông thấy một con rắn trắng leo lên xà nhà, nhỏ một giọt máu vào đúng chữ đại (là đời), thấm qua 3 tờ giấy. Ông nghĩ là nó sẽ báo oán tới 3 đời . Cái này có lẽ ông nghĩ sai, ông bị tru di tam tộc chứ không phải bị báo oán 3 đời: sách Tang Thương Ngẫu Lục kể rằng, người con trai của ông là Anh Vũ, thoát chết trong vụ tru di, được vua Thánh Tông tha tội, sai đi sứ Tàu, đến hồ Động Đình, thì thấy một con rắn, và sóng gió nổi lên dữ dội, Vũ khấn, xin được bình yên làm tròn sứ mạng, và đến khi về cũng bị đắm thuyền mà chết. Con rắn sao sống lâu vậy, lại qua tới hồ Động Đình? Dù đúng là con rắn đó báo thù thì cũng chỉ có 2 đời, không phải 3.
Hai trứng nở ra 2 con rắn, một dài, một ngắn, ông sai đem thả xuống sông Tô Lịch.
Vì là công thần khai quốc, ông được ban quốc tính, làm tới chức Nhập Nội Hành Khiển, tước Tế Văn Hầu.
Sách Tang Thương Ngẫu Lục có chép một bài biểu, 2 bài chế (viết thay vua) nhưng không có Bình Ngô Đại Cáo, và thơ hỏi đáp giữa ông và Nguyễn Thị Lộ.
Mỗi ngày, ở triều về, đi qua phố hàng chiếu, ông thường gặp một người con gái rất đẹp. Ông ỡm ờ làm thơ ghẹo:
Ả ở đâu mà bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu phỏng độ bao nhiêu tuổi ?
Đã có chồng chưa, được mấy con ?
Nàng ấy đáp rằng:
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn ?
Xuân Thu trạc độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có nói chi con.
Người đó là Nguyễn Thị Lộ, được Nguyễn Trãi lấy làm vợ bé. Theo Thi Viện thì Nguyễn Trãi gặp Thị Lộ năm 1406, lúc ông 26 tuổi, đang làm quan với nhà Hồ. Có lẽ không đúng. Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất 1442.
Theo Wikipedia thì Thị Lộ sinh năm 1400, vậy năm 1406, Lộ mới 6 tuổi!
Có chỗ nói Lộ sinh năm 1390 hay 1394, như thế không hợp lý, vì bà chỉ kém Nguyễn Trãi 10 tuổi. Kém 20 tuổi thì hợp lý hơn. (1380 và 1400)
Vua Thái Tông rất ngưỡng mộ bà Thị Lộ, vời bà vào cung làm LỄ NGHI Học Sĩ. Thái Tông sinh năm 1423, lên ngôi năm 1433, lúc Thái Tổ mất, khi mới 10 tuổi. Thái Tông kém bà Thị Lộ tới 23 tuổi (1400 và 1423).
Nguyễn Trãi quy ẩn vào năm 1439. Sau đó thì xảy ra vụ LỆ CHI VIÊN, tức là vườn vải.
*Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, thì ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442, vua đi tuần, duyệt quân ở Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua về chỗ ông ở là Côn Sơn. Ngày 4/8, vua về đến Lệ Chi Viên thức suốt đêm với Thị Lộ rồi mất. Thái tử Bang Cơ 2 tuổi lên ngôi, Thái hậu Nguyễn Thị Anh thị chính. Triều đình kết tội Nguyễn Trãi giết vua, bị tru di tam tộc.
*Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng viết đại khái như vậy, nhưng nói rõ là khi đến Lệ Chi Viên, vua bị sốt rét mà băng, dù được Thị Lộ hầu hạ suốt đêm. Sách này còn nói, thời Thị Lộ làm Lễ Nghi Học Sĩ ở trong cung, vua có sàm sỡ với bà. Bà là Lễ Nghi học sĩ, lớn hơn vua 23 tuổi, lại là vợ của đại thần thì chắc vua không dám và không nỡ làm điều trái luân thường như vậy. Huyền thoại thì nói Thị Lộ là con rắn hóa thân, khi họ hàng Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc thì Thị Lộ hóa rắn lặn xuống sông, trốn mất.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì vụ án Lệ Chi Viên không phải vì rắn báo oán mà là người báo thù.
Nguyên Thái Tông có nhiều vợ lắm, trong đó bà Nguyễn Thị Anh đã có con trai là Bang Cơ, đã được lập làm Thái tử. Lúc đó, bà vợ khác là Ngô Thị Ngọc Dao đang có mang. Sợ bà Dao sinh con trai, có thể tranh chức Thái tử của con mình, nên bà Anh xúi Thái Tông giết bà này, với tội dùng bùa phép. Nguyễn Trãi biết chuyện, và Thị Lộ đang làm việc ở trong cung, nên ông bảo bà ấy khuyên vua không nên làm việc thất đức. Thái Tông nghe theo, nên Thị Lộ đem
bà Ngọc Dao dấu ở chùa Huy Văn, sau sinh ra Tư Thành, tức Thánh Tông. Vì việc này mà bà Anh thù Nguyễn Trãi, nên nhân được thị chính, mới khiến triều thần kết tội giết vua cho Nguyễn Trãi.
Trong sách Tang Thương Ngẫu Lục còn nhắc tới chuyện Lê Quý Đôn, mà tôi sẽ đề cập đến ở đoạn sau.
Sách viết rằng, đời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng, triều đình làm sổ dân, muốn rút bớt ân trạch với các công thần khai quốc. Khi xem đến đạo sắc của Nguyễn Trãi, Thị lang bộ Hộ là Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã xé đi và nói “ đây là loạn thần tặc tử mà còn cáo sắc làm gì.” Vừa nói xong thì ngủ lim dim, thì thấy 2 người lính đến giải tới trước mặt một vị quan văn, đội mũ phốc đầu (mũ thời xưa, giống như cái khăn xếp lại, để triều vua vào ngày rằm, mồng một, ngày thường dùng mũ ô sa), mặc áo bổ phục (áo có thêu kim tuyến và chỉ ngũ sắc, hình chim cho quan văn, hình thú cho quan võ,) có lính hầu, trông rất oai nghiêm. Lính bắt Đôn quỳ xuống. Vị quan quát lớn : “ Ta là Tế Văn Hầu đây. Ngươi là một gã hậu sinh mới học, sao dám xúc phạm tới bậc bề tôi cũ có công của triều trước, thật đáng tội chết ”. Đôn sợ, không dám ngẩng mặt lên. Một lúc sau, có người khuyên bảo, Tế Văn Hầu mới nói “ công danh sự nghiệp của ta, cố nhiên không thèm so sánh với nhà ngươi. Hãy đọc Bình Ngô Đại Cáo của ta, nếu ngươi viết được hay hơn thì xé sắc của ta mới không có lỗi.”
Tỉnh dậy, Đôn sợ quá, phải viết lại đạo sắc như cũ.
2)Chuyện Rắn đầu biếng học, thơ ứng khẩu của Lê Quý Đôn : Lê Quý Đôn, sinh 1726, mất 1784, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Năm 1743, ông đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương.
Ông rớt thi hội mấy lần, năm 1752 đỗ Hội Nguyên.
Vào thi Đình, ông đỗ Bảng Nhãn. Nhưng năm đó không có Trạng Nguyên nên coi như ông đỗ đầu, như vậy là đỗ đầu cả 3 kỳ thi. Ông học rộng, biết nhiều, ham viết, ham nghiên cứu, đúng là một nhà bác học. Tuy ông chết sớm, nhưng có rất nhiều sách: -Đại Việt Thông Sử, hay Lê Triều Thông Sử.
-Toàn Việt Thi Lục.
-Phủ Biên Tạp Lục.
-Bắc Sử Thông Lục.
-Dịch Kinh Phu Thuyết.
-Thư Kinh Diễn Nghĩa.
-Xuân Thu Lược Luận.
-Quần Thư Khảo Biện
-Quế Đường Thi Tập.
-Quế Đường Văn Tập.
-Vân Đài Loại Ngữ. Cuốn này hay và nổi tiếng nhất.
Giai thoại kể rằng, Vũ Công Trấn đến thăm cha ông là Lê Phú Thứ, gặp ông đang cởi truồng đứng chơi trước cổng. Ông đứng dạng chân tay ra, đố chữ gì. Được trả lời là chữ Đại, ông chê không đúng, phải là chữ Thái.
Tiến sĩ Trấn phải chịu là mình sai, vì quên cái chấm, là cái chim! Nghe được chuyện đó do ông Trấn kể, ông Thứ gọi con ra tính đánh.
Ông Trấn xin tha cho, nhưng Đôn phải làm một bài thơ, có đề là RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC. Bèn ứng khẩu như sau:
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vết năm ba,
Từ nay TRÂU Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Đầu bài ra bất ngờ kiểu này thì người lớn cũng khó mà làm được. Chữ RẮN đầu câu 2, tuy là chữ rắn, nhưng không phải con rắn, mà là tĩnh từ nghĩa là cứng, rắn đầu là cứng đầu.
Hai chữ Trâu Lỗ này không chỉnh, vì Hổ Mang là tên kép của một loài rắn, ở chữ thứ 2 và 3 của câu chót, mà Trâu Lỗ ở vị trí thứ 3 và 4, lại không có con rắn nào tên như vậy cả. Trâu là quê của Mạnh Tử, Lỗ là quê của Khổng Tử. Có người nói Trâu là rắn Hổ Trâu, nhưng không có rắn Hổ Lỗ.
Có người nói Trâu, Lỗ chỉ muốn nói tới Khổng Mạnh. Cũng được đi, nhưng câu này không có rắn…
Tôi bàn chơi cho vui vậy thôi, đã là giai thoại thì có thể không đúng…
Giai thoại Lê Quý Đôn bị Nguyễn Trãi mắng đã viết ở trên. Xin nói thêm là Giáo Sư Nguyễn Văn Phú và Tướng Nguyễn Ngọc Loan là hậu duệ của Nguyễn Trãi. Ông có tượng ở một công viên ở
Québec.
3)Ngọc rắn: Dã Tràng là một nông dân hiền lành, có lần làm ơn cho một con rắn, được nó cho viên ngọc, ngậm vào miệng thì nghe được tiếng chim. Nhờ viên ngọc rắn này mà Dã Tràng giúp nhiều người tìm được thức ăn, cứu được nước khỏi bị bắc phương thôn tính vì được chim báo trước mà kịp đề phòng. Sau vì vô tình, Dã Tràng đánh rơi viên ngọc xuống biển, không tìm thấy nên tiếc quá, cứ xúc cát làm đường xuống biển để tìm ngọc, lúc chết biến thành một loại cua nhỏ, tiếp tục xúc cát.
--Dã Tràng xe cát biển đông.
--Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Làm gì mà không thành công thì mình nói là công dã tràng. Xin đừng nhầm với Công Dã Tràng, tự Tử Tràng, là một học giả nước Lỗ, là môn đồ và con rể của Khổng Tử.
NHỮNG CHUYỆN TÀU LIÊN QUAN TỚI RẮN
1)Tôn Thúc Ngao: Thời Xuân Thu, một danh tướng nước Sở là Vĩ Lã Thần.
Thần sinh ra Vĩ Giả, là một thần đồng, giỏi từ hồi 5,6 tuổi. Khi Vĩ Giả bị hại, con là Vĩ Ngao, tự Tôn Thúc, nên được gọi là Tôn Thúc Ngao, dắt mẹ đi lánh nạn ở Mông Trạch, lo việc cầy cuốc nuôi thân. Ngao văn võ toàn tài, tính tình hiền lành, thích giúp đỡ thiên hạ. Một hôm, Ngao ra đồng thì gặp CON RẮN 2 ĐẦU. Nghe người ta nói, ai thấy rắn 2 đầu thì tất mạng vong, Ngao nghĩ đằng nào cũng chết, nên giết con rắn, đem chôn để tranh cho người khác khỏi mắc nạn như mình, rồi về nhà, kể chuyện cho mẹ, khóc lóc thảm thiết. Người mẹ cười, nói rằng con làm việc thiện thì chắc Trời sẽ giúp. Quả nhiên, mấy hôm sau, có chiếu chỉ của vua Sở, triệu Ngao về triều, phong làm Lệnh Doãn. Ngao làm cho nước giàu, dân mạnh, mà rất thanh liêm, nên khi chết, con cháu nghèo khổ, ai cũng thương. (Trời giúp hơi ít)
2)Lưu Bang, hay Lưu Quý:
Hồi trẻ, bà Đoàn Thị Điểm, người dịch Chinh Phụ Ngâm, rất hay chữ, ứng đối rất giỏi. Một hôm anh bà là Đoàn Doãn Luân ra câu : Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
(Rắn trắng đón đường, Quý vung kiếm ra chém đó) Bà đối lại là:
Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên chi thán viết. (Rồng vàng đội thuyền, Vũ nhìn trời mà than rằng)
Lưu Bang tên chữ là Quý, làm chức đình trưởng, rất nhát, nhưng có hôm say rượu, thấy con rắn trắng dài 10 trượng, Bang quên sợ, rút kiếm chém rắn đứt làm 2 đoạn…
Mấy hôm sau, người ta thấy một bà già ôm xác rắn mà khóc. Hỏi tại sao thì được trả lời: con tôi là con Bạch đế, hóa ra rắn, nằm dọc đường, bị ông Xích đế chém chết.
Cái này là Tàu bịa ra để tâng bốc Bang, cho là số trời đã định cho ông ta làm vua.
3)Bạch Xà, Thanh Xà: Đó là truyền thuyết đời Tống, xảy ra ở Hàng Châu, Tô Châu và Trấn Giang. Nhiều bản văn khác nhau, một số chi tiết khác nhau, viết vào triều Tống, Minh, Thanh. Đại khái là Bạch xà tu luyện thành tinh, hóa ra người được, có tên là Bạch Tú Trinh, kết duyên với Hứa Tiên, và nhận Thanh xà (Tiểu Thanh) làm em. Bạch xà và Hứa Tiên tới Trấn Giang mở hiệu thuốc.
Pháp Hải là con rùa, cũng tu thành người, bắt Hứa Tiên nhốt ở chùa Kim Sơn, Trấn Giang, Bạch nương tử (Bạch xà) thì bị nhốt trong tháp Lôi Phong ở Hàng Châu, khi đang có thai. Thanh xà trốn thoát, tu luyện thành tài, đánh Pháp Hải, cứu mẹ con Bạch xà và Hứa Tiên.
Tháp Lôi Phong ở bờ nam của Tây hồ, du khách có thể thấy khi đi thuyền.
Tháp được xây năm 975, bởi vua Nam Đường, để kỷ niệm sự ra đời của con trai với sủng phi họ Hoàng, nên còn gọi là tháp Hoàng Phi. Tháp này bị sập, được xây lại năm 2002.
4)Rắn báo oán: Đời Minh, Mục Tông lên ngôi,các gian thần và những người ông không tin tưởng. Chu Tuệ có tài, nhưng nằm trong số người bị cách chức. Chu về quê, ở Hàng Châu, một hôm đi dạo thì gặp một người con gái đi bán hoa, tên Kiều Oanh. Cũng làm thơ, hỏi, trả lời, rồi cưới nàng làm thiếp. Thái tử tới thăm, Chu Tuệ mở tiệc thết đãi, sáng ra thì Thái tử chết. Chu bị tru di tam tộc. Trước đó, Chu nằm mơ thấy có người đàn bà đến xin hoãn dọn vườn, nhưng không hiểu, gia nhân phá tổ rắn, rắn mẹ bị thương chạy thoát, đến nhỏ giọt máu thấm 3 trang giấy…
Truyện này giống hệt trường hợp Nguyễn Trãi. Nhưng vụ án Nguyễn Trãi xảy ra vào năm 1442, mà Minh Mục Tông là vua thứ 13 của nhà Minh, trị vì từ 1567-1572, sau Nguyễn Trãi hơn 100 năm.
RẮN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA KIM DUNG
1)Quách Tĩnh uống máu rắn: trong Anh Hùng Xạ Điêu, có một nhân vật phụ là Sâm Tiên Lão Quái Lương Tử Ông. Lương nuôi một
con rắn cực độc bằng thuốc bổ thượng hạng, rồi từ từ uống máu rắn để tăng công lực.
Khi Vương Xử Nhất, người thứ 3 trong Toàn Chân thất tử, một trong những thầy của Quách Tĩnh, bị trúng độc, Quách lẻn vào Triệu Vương Phủ định ăn cắp thuốc, đã không thành công, còn bị con rắn của Lương vồ được, quấn chặt lấy. Trong lúc nguy cấp, Tĩnh cắn cổ con rắn, hút hết máu. Rắn chết, Tĩnh thoát thân. Lương Tử Ông tiếc lắm, cố đuổi Tĩnh để hút máu lấy lại chất bổ. Sau cùng, Lương bị
Tĩnh đá rớt xuống vực sâu mà chết.
2)Vua nuôi rắn: Âu Dương Phong, Tây Độc (trong Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp) là chủ nhân Bạch Đà Sơn ở Tây Vực, có võ công rất cao, nhất là Hàm Mô Công, lại nhiều mưu mô, thủ đoạn. Khí giới của ông ta là một cây gậy với 2 con rắn độc. Ông ta đi đâu cũng có đám thị nữ theo hầu và lùa cả ngàn con rắn đi trước. Trong Thần Điêu Đại Hiệp, ông ta còn dậy võ công cho Dương Quá, và đánh nhau tay đôi với Hồng Thất Công, tức Bắc Cái. Tây Độc và Bắc Cái đều truyền thụ võ công cho Dương Quá rồi kiệt lực, ôm nhau mà chết.
3)Kim xà lang quân: Trong Bích Huyết Kiếm, vai chính là Viên Thừa Chí, con của Viên Sùng Hoán, tướng nhà Minh, chống quân Thanh. Khi Sùng Hoán bị vua Sùng Trinh nghe xàm tấu giết đi, Thừa Chí được bộ thuộc của cha đưa lên Hoa Sơn, làm đồ đệ của Bát Thủ Tiên Viên Mục Nhân Thanh.
Khi được xuống núi, Chí quen và yêu Ôn Thanh. Mẹ Thanh là Ôn Nghi, con của Ôn lao tam. Mấy anh em họ Ôn này đã giết cả nhà Hạ Tuyết Nghi, nên Nghi tới trả thù. Hạ Tuyết Nghi là Kim xà lang quân.
Những chuyện về ông đều do người khác kể lại từng đoạn. Đại khái như sau: Hạ tới Ngũ Độc Giáo, được Hà Hồng Dược tin yêu, dắt vào cấm địa của giáo phái mình, Hạ lấy cắp 3 báu vật là Kim xà kiếm, Kim xà truỷ, và bản đồ kho báu ở Nam Kinh. Hà Hồng Dược thì bị phạt, thả vào hang rắn, một trong ngũ độc, không chết nhưng dung nhan bị hủy hoại. Hạ Tuyết Nghi về thăm người yêu, bị Ôn gia ngũ lão dùng lời ngon ngọt dụ dỗ ở lại, bị hạ độc, cắt đứt gân tay chân. Hạ thoát được chạy đến Hoa Sơn, trốn trong một động đá, và chết ở đó. Viên Thừa Chí vô tình tìm thấy động ấy, chôn xác Kim xà lang quân, lấy được 3 báu vật, thêm cuốn Kim Xà Bí Kíp để dùng với kim xà kiếm cho thêm uy lực.Chuyện Thừa Chí thì dài lắm, được A Chín tức Trường Bình Công Chúa say mê, tìm được kho báu để Lý Tự Thành mua quân lương. Khi chiếm được nước, Sùng Trinh tự vẫn, Lý trở nên hoang đàng, giết Lý Nham…Thừa Chí chán quá, cùng Ôn Thanh Thanh bỏ đi. Ôn là họ mẹ, thật ra tên nàng là Hạ Thanh Thanh… Quân nhà Thanh, nhờ phản tướng Ngô Tam Quế giúp, đã chiếm được Trung Hoa.
4)Kim Ngân Huyết Xà: Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, vai chính là Trương Vô Kỵ, con Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố, con nuôi của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Vô Kỵ bị Huyền Minh Thần Chưởng đánh trúng, bệnh rất nặng, được Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu chữa cầm chừng, kéo dài cuộc sống. Vô Kỵ học được y thuật của Y Tiên, và được cuốn sách Độc Vật Đại Toàn của Độc Tiên Vương Nạn Cô, vợ Thanh Ngưu, khi cậu ta chôn 2 vợ chồng vừa bị Kim Hoa Bà Bà giết chết.
Kỷ Hiểu Phù bị sư phụ đánh một chưởng vào đầu, lúc sắp chết, nhờ đưa con gái là Dương Bất Hối, con Dương Tiêu, Quang Minh Tả Sứ của Minh Giáo ở Toạ Vọng Phong, núi Côn Luân. Trên đường đi, Vô Kỵ đi tới phái Côn Luân, mà Chưởng Môn là Hà Thái Xung, và vợ là Ban Thục Nhàn, vì Chiêm Xuân, đồ đệ của Hà, biết tài của Vô Kỵ mà giới thiệu.
Thái Xung có nhiều vợ bé, cô Năm được yêu nhất nhưng bị bệnh lạ, không ai chữa khỏi. Vô Kỵ coi bệnh, quan sát chỗ ở của cô Năm, thấy có hai cái hang, coi vườn hoa, nhờ Hà coi ngón chân của cô thấy có vết cắn nhỏ, thì tuyên bố:
Cô Năm bị Kim Ngân Huyết Xà cắn.
Vô Kỵ sai đào hết mấy cây Linh Chi Lan, lấy gốc giã ra, trộn với hột gà, và hai ống tre nhỏ. Cậu làm một vòng tròn, để hở một chỗ, rồi lấy lá Linh Chi Lan đốt ở trước 2 cái hang. Lát sau thì thấy từ hang bên trái có một con rắn chui ra, da đỏ hồng như máu, đầu có mào màu vàng, mà có 4 chân !, dài chừng 8 tấc. Từ hang bên phải cũng có một con rắn nữa bò ra, con này nhỏ và ngắn hơn một chút. Hai con rắn thè lưỡi liếm vai nhau, trông rất âu yếm, rồi bò vào giữa vòng thuốc. Chờ chúng vào trong rồi, Vô Kỵ để ống tre trước mặt con rắn màu bạc, rồi lấy que trúc khẽ gạt đuôi, nó chui tọt vào ống tre, nhanh như chớp. Con màu vàng định chui theo, nhưng không vừa, nên ngửng đầu, kêu vù vù, như tiếng ống tiêu. Vô Kỵ cũng làm như vậy với con màu vàng rồi đậy nắp lại.
Sau khi rửa hết những chất độc trên mặt đất, Vô Kỵ sai đóng cửa sổ, lấy hồng hoàng, minh phàn, cam thảo giã thành bột, trộn với vôi rồi bỏ vào ống tre có con rắn màu bạc. Nó kêu vù vù…con màu vàng cũng kêu theo.
Vô Kỵ mở nút ống tre có con rắn mầu vàng, thì nó bò quanh ống tre của con rắn bạc, rồi chạy vào chăn, cắn ngón chân của cô Năm hút máu.
Lát sau, mình con rắn căng lên, to gấp 5,6 lần lúc chưa hút máu. Nó bò xuống, nhả chất độc ra cho con rắn bạc ăn.
Vô Kỵ nói: như vậy là 2 con rắn này sẽ thay phiên nhau hút chất độc cho cô Năm, ít lâu sẽ khỏi.
Cô khỏi thật, Hà Thái Xung làm tiệc mừng, vợ Xung là Thục Nhàn đưa hũ rượu độc tới, bắt 1 người uống. Mọi người đều né, thành ra Vô Kỵ lãnh đòn.
Tôi không nói dài dòng, chỉ biết Vô Kỵ thoát chết, đưa Bất Hối tới cho cha, theo đúng lời gởi gắm của Hiểu Phù.
Xin ngừng vì bài quá dài, và tôi cũng hết ý. Viết được vậy là may lắm rồi, vì ông chủ bút đòi bài vào giờ chót.
Xin chúc quý độc giả năm mới an khang.
Bát Sách.
(Ngày 26/11/2024 )
Tham khảo:
*Wikipedia.
*Thi Viện.
*Việt Nam Sử Lược.
*Việt Sử Tân Biên
*Tang Thương Ngẫu Lục.
*Một số tiểu thuyết của Kim Dung.