Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

Lạc Bước Song Đôi...

 Sóng biển ạt ào cuồng xoáy trong tôi
Lòng  ngỗn ngang tim từng nhịp bồi hồi.
Dấu chân để lại còn hằn trên cát
Cho người lạc lối tìm bước song đôi


Cánh chim vẫn ngóng chờ đợi mãi
Thì tình mình không thể dễ phôi phai
Chút nắng vơi cuối trời chưa tắt vội
Biển nhớ nhung ai, ai sầu nhớ u hoài...


Thơ & Hình Ảnh: Kim Oanh
Mùa Hè Geelong 2024

 

Em Dáng Xưa


Ai vẫn âm thầm mơ dáng xưa?
Chiều thu lối cũ gió giao mùa
Phương trời cách biệt hồn thu chết
Từ độ thu về một nỗi riêng

Lỗi hẹn đôi tim chuyện chúng mình
Chôn vùi hồi ức bụi thời gian
Ngổn ngang nhung nhớ dần phai nhạt
Tiếng khóc bạc lòng vơi đớn đau

Bước vội tìm nhau để mất nhau
Bài thơ dĩ vãng của hôm nào
Hương thu áo não tình thu chết
Mộng dệt khung sầu những tái tê

Mỗi độ thu về một nỗi riêng
Làm sao chôn chặt lấp ưu phiền
Chiều thu lối cũ còn mong mỏi?
Thầm hỏi ai chờ em dáng xưa

Kim Phượng

Con Đò Năm Xưa


Anh về qua xóm cũ,

Vẫn con đò năm xưa
Mắt em buồn như chiếc đò đưa
Bốn mùa sông nước, sớm trưa đợi chờ!
Anh về qua xóm cũ
Con đò xưa nay đã già
Hỏi tên em, mây gió ngân nga,
Mẹ gìà rơi lệ... đời hoa tan tành...
Nhìn theo dòng nước trong xanh
Bóng hình em còn hiện rõ...
Chiếc lá thu vàng rơi theo gió,
Cánh nhạn buồn, lấp ló dòm anh!
Ôi...hồn anh sao quá mong manh
Theo cánh chim chiều, bay vào xa vắng.
Bờ lau sậy soi mình yên lặng,
Bờ tre đầu làng, ngả bóng ngẩn ngơ!
Vạt trời buồn, sỏi đất bơ vơ,
Đường quen, ngõ cũ bây giờ quanh-hiu!
Khung trời xưa, ôi quá tịêu điều
Xa rời bến nhớ, một chiều thê lương!

Tô Đình Đài
Quãng Nam 1981


Qua Vườn Hoa Black Eye Susan



Bài Xướng: Qua Vườn Hoa Black Eye Susan

Rạng rỡ vàng tươi cả góc đường
Đen tuyền..*.mắt đẹp của người thương
Trời xa…gửi nắng giăng đầy ngõ
Ngõ vắng…trồng hoa trải ngập tường
Lặng lẽ chờ thu nồng cánh Thảo
Âm thầm đón hạ giữa vầng Dương
Dừng chân mỗi buổi chiều qua đó
Mỹ cảm trào dâng... rất lạ thường!

Thy Lệ Trang
***
Bài Họa:

Đường Xưa


Tàn Thu lá rụng những con đường
Lạnh lẽo riêng sầu bởi nhớ thương
Ngõ hẻm, đìu hiu, mòn dép nhựa
Đường thưa, quạnh vắng, rã vôi tường
Ta về chẳng gặp người năm cũ
Biển lặng không chờ mãn thái dương
Mấy quãng thời gian tràn kỷ niệm
Lòng như trỗi dậy khúc nghê thường!

Nguyễn Cang

(May. 6. 2025)

Đây Nè, Mùa Thu Texas


Tháng mười hai lá đổi màu

Texas cũng có Thu sầu như ai.
**********

Tôi nói với chồng:

- Trưa mai anh chở em đến khu business văn phòng luật sư trên đường Carrier Parkway.

- Ủa, bà với tôi tới tìm luật sư vụ gì? Tính…nộp đơn ly dị hả?

- Em tới đó…. chụp hình.

Chồng lại ngạc nhiên:

- Hết chỗ rồi sao mà bà đến khu business của người ta chụp hình?

- Nhưng cảnh đẹp anh ạ. Chúng mình chụp hình phong cảnh bên ngoài, chẳng làm phiền hay đụng chạm gì đến ai cả.

Tôi giải thích luôn:

- Anh và em từng đi qua con đường Carrier Parkway, từng thích khu business thanh lịch khang trang này, có văn phòng luật sư và địa ốc gì đó, những business này khách hàng không hàng ngày lui tới nên êm đềm vắng vẻ, phong cảnh cây cối đẹp lại thêm cánh rừng phía sau. Hôm qua em đi ngang qua đó thấy một mùa Thu lá vàng lá đỏ đẹp như mơ.

Tiểu bang Texas rông lớn nên nhà cửa cư dân đều có sân vườn rộng rãi, khu business này cũng thế, chỉ có 3 văn phòng mà “hoang phí” tọa lạc trên khu đất khoảng 2 acres.

Chồng thắc mắc:

- Chắc là bà có ý đồ gì?

- Đúng thế, khoảng cuối tháng mười bạn bè ở những vùng lạnh trên nước Mỹ trong diễn đàn của em khoe mùa Thu đến, gởi nhiều hình ảnh Thu đẹp, có ông Thái Quang Đáng ở bên Canada cũng đứng chụp hình khoe mùa Thu Montreal và ông còn hỏi chọc quê em là Texas có mùa Thu không……

Chồng ngắt ngang, khen:

- Ông này lãng mạn nhỉ..

- Lãng mạn lãng tử luôn, em gọi ông này là “Người mẫu bốn mùa”. Mùa nào ông cũng mũ áo tươm tất ra đường phố nhờ khách qua đường chụp dùm tấm hình giới thiệu mùa về. Ông đứng chống nạnh oai phong dưới tàn cây lá vàng rực rỡ, ý muốn khoe rằng “Đây nè, Thu vàng Montreal của tôi ”. Em ….tức lắm, nhưng đành ráng đợi đến tháng 12 em cũng sẽ chụp hình với cảnh Thu Texas để khoe lại, để họ hiểu rằng Texas của mình cũng có mùa Thu thơ mộng.

Nhiều người chưa đến Texas vẫn hiểu lầm Texas như người ta đánh giá lầm dung nhan một cô gái đẹp thành xấu. Lâu rồi tôi có đọc một bài viết của ông người Việt sống ở nam California, ông đến Dallas Texas thăm bạn, ông lịch sự khen Texas chút chút như nhà cửa đất đai rẻ rồi bắt đầu “chê” Dallas Texas tơi bời, nào không có nhiều chỗ đi chơi, không có biển như Califonia, nào trời đất khô cằn gió bụi, mùa hè khí hậu nóng bức hàng trăm độ chảy mỡ và ông chê luôn hàng quán người Việt ở đây không nhiều, không ngon như Cali, cụ thể là khu Bolsa của ông ấy.

Người sống ở Mỹ như “ông Cali” này còn không biết nhiều Dallas Texas nói chi người phương xa từ Việt Nam. Mới đây một bác người quen của tôi vừa được con gái ở Nam Cali. bảo lãnh sang Mỹ du lịch. Bác gọi phone hỏi thăm và an ủi:

- Cô sống ở bang Texas tuy không đầy đủ như Nam Cali nhưng cũng là ở Mỹ, là sung sướng hơn ở Việt Nam rồi…

Tôi ngạc nhiên:

- Tiểu bang Texas rộng lớn có thiếu thốn gì đâu bác.

Bác ra vẻ hiểu biết:

- Khu Bolsa nam Cali con gái tôi ở, là thủ đô người Việt Nam tị nạn thì tiểu bang Texas của cô cỡ miền Tây của Việt Nam chứ mấy, còn những tiểu bang lẻ tẻ khác trên nước Mỹ coi như vùng sâu vùng xa thì khỏi nói rồi.

Con gái bác mới lấy chồng qua Mỹ được 4-5 năm, chắc không có thì giờ viết thư hay gọi phone cho cha mẹ ở Việt nam để kể chuyện nước Mỹ nên bà bác ở vùng quê miệt vườn nam bộ lần đầu đến Mỹ mới suy nghĩ thế.

Texas cũng như các tiểu bang khác, trải qua bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông chứ thua kém gì, từ Xuân đến Hạ hoa lá tưng bừng, Đông về lạnh thấu xương, có khi trời dở chứng đổ bão tuyết và không hề thiếu mùa Thu, có điều nơi đây mùa Thu đến chậm hơn các tiểu bang vùng lạnh.

Khi thiên hạ hưởng mùa Thu xong cây lá trơ trụi và hứng chịu những lạnh lẽo tuyết băng thì tháng 12 vùng Dallas- Fort Worth Texas của tôi cũng…..e ấp vào Thu.

Tôi đi trong thành phố, lạnh tháng mười hai chỉ cần khoác áo ấm nhẹ để thưởng ngoạn mùa Thu Texas đang trở mình. Hàng cây bên đường xen lẫn giữa cây xanh muôn thuở có cây lá chuyển màu, bàn tay của gió lãng mạn bông đùa reo rắc xuống mặt đường chạm vào lòng người những chiếc lá vàng.

Có những mảnh rừng nhỏ rải rác trên những nẻo đường hay sau những khu nhà. Có lẽ khi xưa người ta làm đường hay xây dựng khu gia cư từ những khu đất toàn là rừng cây, họ đã chừa lại những khoảnh rừng nho nhỏ này để mùa Thu làm đẹp cho đời. Tôi đã bâng khuâng đi giữa hai mùa Thu- Đông một chút vàng Thu và một chút lạnh Đông về.

…………………………

Trưa hôm sau vợ chồng tôi đến khu business trên đường Carrier Parkway, chỉ có vài chiếc xe đậu dưới những gốc cây lá vàng lá đỏ đẹp như những bức tranh tĩnh lặng. Xe cộ là đống sắt vô tri mà cũng đang đồng cảm với mùa Thu kìa.

Trước khi bắt đầu chụp hình chồng hù dọa:

- Coi chừng chủ nhân mấy business kia thấy mình vào khu làm ăn của họ chụp hình bèn…nổi giận kiểu cao bồi Texas nổ súng thị uy đó nha.

Tôi cự nự:

- Anh là người Texas còn “nói xấu” Texas thế sao. Em thấy những chàng cao bồi Texas rất lãng tử, rất đáng yêu.

Tôi đi đến mé rừng, đứng trên lá khô trong bóng râm mát của những lá vàng xen lẫn chút nắng vàng mềm mại xuyên qua kẽ lá, tận hưởng mùa Thu để làm dáng chụp hình, hết cảnh nọ đến cảnh kia gần cả giờ đồng hồ mà tôi vẫn muốn chụp thêm. Chồng đang ngắm nghía chụp bỗng một ông Mỹ từ trong văn phòng luật sư phía bên hông khu rừng đang bước tới gần, chồng cụt hứng và lo ngại:

- Thấy chưa, tôi đã nói rồi. Họ ra hỏi tội mình kìa.

Tôi hồi hộp chuẩn bị sẵn những lời “thú tội” rằng cảnh Thu đẹp ở đây đã quyến rũ tôi, chứ tôi đâu có rảnh mà bỗng dưng lái xe 2 mile đến đây chụp hình.

Nhưng ông Mỹ đã không cao bồi móc súng như trí tưởng tượng của chồng lúc nãy. Ông mỉm cười thân thiện:

- Xin chào. Tôi ngồi trong văn phòng thấy hai bạn có vẻ thích thú chụp hình với cảnh lá đẹp mùa Thu. Vây hai bạn có muốn chụp chung vài tấm hình không? Tôi sẽ giúp.

Tôi thở phào nhẹ nhõm nói với chồng:

- Thấy chưa, “Cao bồi Texas” quá là dễ thương.

Trong khi chồng lịch sự hớn hở đáp lời ông Mỹ:

- Cám ơn ông, chúng tôi rất vui được ông chụp cho vài kiểu.

Ông Mỹ nhận lấy cell phone của chồng và chụp ngay vài tấm hình hai vợ chồng đứng với Thu vàng mà ông tin là đẹp lắm:

- Tôi cũng thích cánh rừng này vào Thu. Tháng 12 Texas chúng ta có nhiều cây lá đổi màu, mùa Thu tuyệt vời.

Vợ chồng tôi rối rít cám ơn ông Mỹ và ra về. Trong khi chồng chạy xe, tôi mở cell phone ra xem lại những hình đã chụp, vội vàng delete “thủ tiêu” ngay những hình nào “thị Nở”, hí hởn chọn và ngắm những hình nào ưng ý để sẽ khoe với bạn bè trên diễn đàn, nhất là khoe với ông Thái Quang Đáng Canada trên diễn đàn kia: “Đây nè, Mùa Thu Texas của tôi”.

Nguyễn Thị Thanh Dương


Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2025

Mai Anh Chết - Thơ: Lê Huy Trứ - Nhạc Nguyên Hà - Tiếng Hát: Duy Linh


Thơ: Lê Huy Trứ
Nhạc Nguyên Hà
Tiếng Hát:Duy Linh

Mùa Này 30 Năm



Nhớ quá mùa này ở Bidong
Đời ngỡ rêu phong bỗng ngọt ngào
Tháng 5 em đến mang màu nắng
Hơ ấm cuộc đời kẻ long đong

Gió biển rì rào sóng biển đông
Bãi cát nằm mong buổi hẹn hò
Trăng chênh chếch ngả chung một bóng
Trên phiến đá sầu đã đơm bông

Sóng vỗ thuyền tình trôi lênh đênh
Ghềnh đá chênh vênh nghe chuyện tình
Ngọn đồi tôn giáo cùng đi lễ
Cùng hướng chung lòng tạ ơn trên

Đời sống không còn là bấp bênh
Hòn đảo đặt tên cho cuộc tình
Dù mai xa cách lòng luôn nhớ
Mãi mãi bóng hình kề cận bên

Mới đó xa người ba mươi năm
Nhận vết ngọt đâm lòng ngậm ngùi
Tháng 5 về lại buồn da diết
Ngọn gió mùa này cũng lạnh căm

Nhớ quá một người ở xa xăm
Đau nhói từ tâm tiếng thơ sầu
Biđong con sóng tràn kỷ niệm
Chạnh nhớ chuyện tình ba mươi năm

Đỗ Hữu Tài
Wed May 18, 2011


Vô Hình


Xuyên qua tia nắng anh còn thấy bụi
Sao em trong nhà anh chẳng thấy em?
Xuyên qua ánh đèn, bụi vẫn luân chuyển
Sao anh ra vào cứ lướt ngang êm?

Á Nghi

Đi Tìm Hư Không


Phục bước ra khỏi ga tàu, vội vã tiến về phía một quán nhỏ ven đường. Mùi khói bếp hòa quyện cùng làn sương sớm mờ ảo, bao phủ không gian yên tĩnh. Chàng bước vào quán, mua ít lương khô và hỏi đường lên Lương Sơn Bạc, nơi chàng dự định tìm thầy học đạo. Người chủ quán, một ông lão với đôi mắt sáng, dường như đã quá quen với cảnh những người lạ hỏi đường lên Lương Sơn Bạc. Ông ngẩng đầu nhìn Phục, rồi nhẹ nhàng hỏi:
− Cậu muốn hỏi đường đến Lương Sơn Bạc à?
− Dạ, tôi nghe nói ở đó có một bậc chân tu đắc đạo, nên tôi muốn đó để tầm sư học đạo.
Phục trả lời, giọng nhẹ nhàng nhưng đầy quyết tâm. Rồi chàng hỏi tiếp:
– Đường lên Lương Sơn có xa lắm không?
− Khoảng mươi cây số thôi, nhưng đường lên núi rất hiểm trở, lại có cọp. Cậu chắc là từ miền ngoài vào, chưa nghe tiếng "cọp Khánh Hòa" sao?
Người chủ quán nhìn Phục với ánh mắt đầy ẩn ý, rồi đưa tay chỉ về phía ngọn núi lốm đốm bạc trắng xa xa. Ông nói tiếp:
− Cậu cứ đi theo con đường mòn đó, qua khỏi ga xe lửa rồi đi thẳng. Độ chừng vài giờ, cậu sẽ thấy một con suối. Qua khỏi con suối là một ngã ba, có một gốc thị lớn. Nhớ rẽ phải đi khoảng vài cây số thì sẽ gặp một khu rừng hoa mai. Đó chính là nơi cậu tìm được người mà mình muốn gặp. Chúc cậu may mắn.
Phục cảm ơn người chủ quán rồi lên đường. Chàng đi qua những con đường gập ghềnh, dọc theo con suối lững lờ, đến khi mặt trời đứng bóng.

Ánh nắng chói chang như đổ lửa xuống mặt đất. Bầu trời trong vắt, không một gợn mây, ánh sáng chiếu xuống tạo ra những vệt sáng chói lọi trên mặt đất. Cây cối đứng im lìm, bóng mát dường như biến mất, chỉ còn những hình bóng cằn cỗi của cây cối đổ dài. Không khí nóng bức, oi ả, khiến mọi thứ trở nên tĩnh lặng lạ thường. Tiếng chim hót vang vọng từ xa, nhưng không khí vẫn yên ả, chỉ thỉnh thoảng có làn gió nhẹ thoảng qua, làm dịu bớt cái nóng hầm hập.

Sau một chặng đường dài mệt mỏi, Phục cuối cùng cũng đến được gốc cây thị như lời chỉ dẫn của người chủ quán. Chàng thở dài, cảm giác mệt nhoài bao trùm lấy cơ thể. Không còn sức để tiếp tục đi, Phục ngồi xuống gốc cây thị già, mở gói lương khô ra ăn. Sau khi ăn xong, chàng lại bước đến bên suối, uống vài ngụm nước. Nước suối trong vắt, mát lạnh. Mặt nước như gương, phản chiếu hình ảnh của chàng và cây cỏ ven bờ. Cảm giác mệt mỏi dường như tan biến. Phục rửa mặt, hít thở không khí trong lành của miền núi, lòng nhẹ nhõm. Chàng ngồi xuống bờ suối, để cho những suy nghĩ tự do trôi qua trong tâm trí. Một mùi hương nhẹ từ những quả thị chín theo gió thoáng qua, hòa vào không khí. Chàng chợt nhớ lại câu chuyện thần thoại về cô Tấm, người hóa thành quả thị chín, sống bên bìa rừng, chờ đợi nhà vua đến đón. Một nụ cười khẽ thoáng trên môi Phục khi nghĩ về câu chuyện ấy. “Liệu có phải cô Tấm nào sẽ hiện ra đón chàng đi đến Lương Sơn Bạc chăng?”

Sau khi nghỉ ngơi một lúc, Phục tiếp tục lên đường, nhưng con đường càng lúc càng trở nên gồ ghề, khó đi. Những bụi hoa trinh nữ tím nở dày đặc ven đường, cản trở bước chân chàng. Đi thêm được vài cây số, Phục đột nhiên gặp phải một con thác lớn, chắn ngang lối đi. Nước từ trên cao đổ xuống mạnh mẽ, trắng xóa như một bức màn. Phục nhìn lên ngọn thác, lòng chợt ngờ vực. Người chủ quán đã nói về khu rừng hoa mai, nhưng giờ đây, trước mặt chàng lại là con thác hùng vĩ này.
Chàng bối rối, lẩm bẩm:
− Sao lại thế này? Ông chủ quán bảo sẽ gặp một vườn mai rừng sau khi rẽ phải ở ngã ba cây thị, sao giờ lại là thác nước?
Phục nhìn quanh, nhưng bốn bề chỉ có tiếng thác đổ ào ạt. Chàng định quay lại gốc cây thị chờ để hỏi đường, thì đột nhiên có tiếng sáo trong trẻo vang lên giữa không gian yên tĩnh. Phục vội vã đi theo tiếng sáo, hi vọng sẽ gặp ai đó giúp đỡ, chỉ đường. Khi đến gần, người thổi sáo ngừng lại, quay sang nhìn Phục.
− Ông đi đâu thế? Lạc đường à?
Phục nhìn người lạ. Ðó là một người phụ nữ trẻ, khoảng chừng mười tám đôi mươi. Người con gái hỏi, ánh mắt không có vẻ gì là ngạc nhiên, chỉ bình thản như thể đã quen gặp những kẻ lạc đường như Phục.
Phục nhìn người con gái trước mặt. Cô gái có mái tóc dài, mượt, làn da ngăm ngăm khỏe mạnh. Nàng mặc bộ đồ thổ cẩm đặc trưng của miền núi. Bên cạnh nàng là một cái gùi mây. Phục tiến lại gần, hỏi:
− Tôi đi lên Lương Sơn Bạc tìm thầy học đạo, nhưng lạc đường. Cô có thể chỉ giúp tôi đường lên Lương Sơn không?
Người con gái nhìn Phục một lúc lâu rồi khẽ trả lời:
− Ông lại tìm ông ấy à? Ông đi nhầm đường rồi.
Phục ngạc nhiên:
− Vậy tôi phải làm sao bây giờ, thưa cô?
Người con gái nhìn Phục như đoán được sự bối rối trong lòng chàng. Nàng khẽ nói:
− Bây giờ cũng đã muộn, ông không thể đi tiếp nữa đâu. Đường qua núi rất nguy hiểm, có thú dữ. Ông tạm nghỉ lại đây, ngày mai hãy tiếp tục lên đường.
Phục hỏi:
− Thế tôi tá túc ở đâu bây giờ khi đang ở giữa nơi núi rừng này?
− Ở nhà tôi. − Người con gái đáp, rồi nhanh chóng bước đi, dẫn Phục theo một con đường nhỏ, xuyên qua lòng thác.
Phục bước theo nàng, nhìn xung quanh. Con đường dường như ẩn mình sau những cụm hoa trắng nhỏ li ti, khiến chàng không chú ý. Chàng hỏi:
− Nhà cô gần đây không?
− Sau con thác này. − Người con gái trả lời, bước chân nhẹ nhàng, không vội.
Khi họ đến được nhà cô gái, một người phụ nữ trung niên đang nướng ngô bên cạnh một cô bé nhỏ. Người con gái chỉ về phía bà ta và nói:
− Mạ, có người này muốn đi Lương Sơn Bạc, nhưng lại lạc đường vào đây, xin ngủ tạm qua đêm.
− Lại một người muốn tìm ông ấy nữa à. − Người mẹ nhếch mép, nhưng Phục chẳng hiểu gì về cuộc đối thoại của họ. Dường như họ biết rất rõ về vị thầy mà Phục đang tìm, nhưng có điều gì đó khiến Phục cảm thấy khó hiểu.

Sau bữa tối, Phục ra ngoài võng nằm nghỉ. Cảm giác mệt mỏi không ngừng đeo bám, nhưng chàng vẫn không thể ngủ yên. Trong lòng chàng, những suy nghĩ hỗn loạn cứ quẩn quanh.
Đêm khuya, sương xuống, khí hậu nơi rừng núi trở nên lạnh lẽo.
Sáng hôm sau, khi Phục tỉnh giấc, cô gái đã dậy sớm, đang nhóm lửa nấu cơm.
− Cô dậy sớm thế? − Phục hỏi.
− Dạ, tôi dậy nấu cơm cho mạ và em ăn rồi còn phải đưa ông đi. − Cô gái đáp, giọng dịu dàng.
− Đưa tôi đi? − Phục ngạc nhiên.
− Vâng, thưa ông. Đường lên Lương Sơn Bạc khó đi lắm, không để ông lạc thêm lần nữa. Vả lại tôi cũng muốn đem cho ông ấy một ít ngô. − Cô gái trả lời, ánh mắt lấp lánh.
Phục nhìn quanh, hỏi:
− Ở đây không có nhà xung quanh sao cô?
− Lúc trước có, thưa ông. Nhưng họ đã dọn đi nơi khác từ hơn năm trước. − Cô gái trả lời, trong giọng nói có gì đó nhẹ buồn.
Chàng ngồi xuống cạnh cô gái, hỏi tiếp:
− Vậy cô tên gì?
− Tên em là Lan. − Cô gái đáp, mắt nhìn Phục, có chút ngượng ngùng.
− Hèn gì cô đẹp như một đóa hoa lan, vừa thơm, vừa quyến rũ.− Phục mỉm cười.
Cô gái đỏ mặt, khẽ đáp:
− Lan mà đẹp chi ông, ngoài suối còn thiếu gì lan…
Phục cười nhẹ, nhưng trong lòng chàng lại có nhiều suy nghĩ. Câu chuyện về vị thầy đắc đạo mà Phục tìm kiếm bỗng trở nên mơ hồ. Liệu thầy mà chàng tìm có thật là người mà cô gái này nói đến? Hay tất cả chỉ là sự hiểu nhầm? Những nghi ngờ trong lòng Phục ngày càng lớn.
− Tại sao ông lại đi Lương Sơn Bạc tìm ông ấy? − Lan hỏi, đôi mắt cô nhìn sâu vào Phục.
Phục trả lời, giọng nghiêm túc:
− Tôi nghe nói ông ấy là người đắc đạo, nên tôi muốn đến học. Gia đình cô có quen ông ấy phải không?
Lan nhẹ nhàng gật đầu:
− Ông ấy là gia của chúng tôi.
Phục ngạc nhiên:
− Là gì thưa cô?
− Là gia…là cha tôi đấy. − Lan đáp, giọng bình thản.
− Ông ta là người tu hành mà còn lập gia thất sao cô? − Phục hỏi, không giấu nổi sự ngạc nhiên.
Lan cười nhẹ:
− Ông ta có tu hành gì đâu thưa ông.
− Ồ….

Phục im lặng, đôi mắt mơ màng nhìn về phía xa. Suy nghĩ của chàng cứ quẩn quanh như những con sóng vỗ về. Chàng cảm nhận một sự mơ hồ, không rõ ràng về con đường mình đang đi, về vị thầy mà mình tìm kiếm. Chàng tự hỏi liệu đây có phải là nơi mình sẽ tìm được câu trả lời cho những khát khao trong lòng hay không.
Lan nhìn Phục, đôi mắt dịu dàng, nhưng dường như nàng cũng cảm nhận được sự bất an trong lòng chàng. Lan lên tiếng:
– Ông sao vậy? Cứ như người đang lạc lối.
Phục giật mình, vội đáp:
– Không có gì, chỉ là tôi đang suy nghĩ một chút.
Lan mỉm cười, rồi dẫn Phục theo con đường mòn phía trước. Hai người đi qua những gốc hoa mai rừng, hàng vạn cánh hoa trắng muốt phủ đầy mặt đất, tỏa hương thơm dịu dàng trong không gian mờ ảo. Không khí trở nên yên bình, tĩnh lặng.
Sau vài giờ, họ gặp một người đàn ông mặc áo cà sa, chân đất, đi về phía họ. Lan vui mừng, lên tiếng:
– Gia tôi đấy!
Phục ngạc nhiên, bước lại gần, nhìn người đàn ông. Phục chắp tay và cúi đầu xá. Chàng hỏi:
– Thưa ngài, ngài có phải là sư Sãi không?
Người đàn ông dừng lại, quay nhìn Phục và mỉm cười:
– Tôi tên là Sãi, nhưng không phải là sư.
Phục ngạc nhiên hỏi tiếp:
– Thế tại sao ông lại mặc áo của nhà sư và người ta gọi ông là sư Sãi?
Người đàn ông nhìn Phục bằng ánh mắt bình thản:
– Mặc áo của nhà sư thì có gì sai? Chiếc áo này ai mặc cũng được. “Chiếc áo không làm nên thầy tu" anh không nghe nói sao? Xin đừng quá coi trọng chiếc áo. Áo này chỉ là vật che thân thôi, không phải là bản chất của con người. Người ta gọi tôi là sư, chỉ là một từ mà họ gán cho tôi. Nhưng thật ra, tôi sống không cần họ phải gọi như vậy. Tôi sống để tìm thấy bản thân mình. Khi tôi thấy được chính mình, tôi cảm thấy nhẹ nhõm, tự do.

Phục nghe vậy, lòng rối bời. Đây không phải là hình ảnh mà chàng tưởng tượng về một người thầy đắc đạo. Những lời nói của ông ta khiến Phục càng thêm bối rối. Chàng không hiểu tại sao người này lại chọn con đường tu hành nhưng lại sống theo cách này.
– Thế tại sao ông lại có gia đình trong khi ông muốn vượt lên tất cả những ràng buộc trần thế? – Phục hỏi.
Người đàn ông đáp, giọng nhẹ nhàng nhưng chắc chắn:
– Vì tôi là con người. Là con người cần có sự cân bằng trong cuộc sống. Cần có vợ, có chồng, để cảm nhận được sự trọn vẹn của thiên nhiên. Tôi không sống theo kiểu buông bỏ hoàn toàn. Tôi sống một cách tự do, không bị ràng buộc của những tiếng đời, của miệng thế gian. Tôi đến đây để hòa mình vào thiên nhiên, tìm thanh thản cho tâm hồn, tránh xa nơi phố thị phồn hoa,… nhưng cũng không vứt bỏ những gì là tự nhiên.
Phục cảm thấy một sự mâu thuẫn trong lời nói của ông ta. Chàng không thể hiểu được vì sao người này lại nói về sự vượt lên chính mình nhưng lại không hoàn toàn từ bỏ mọi thứ. Chàng hỏi tiếp:
– Vậy tại sao ông không sống như người bình thường, có một cuộc sống tự do và hạnh phúc bên gia đình và vợ con?
Người đàn ông mỉm cười, nhìn Phục với ánh mắt thâm trầm:
– Vì tôi không muốn làm phiền gia đình và vợ con. Tôi sống một mình, không quấy rầy ai. Và tôi cũng không muốn họ phải gánh vác sự lựa chọn của tôi. Tôi sống cho chính mình, không để ai phải chịu đựng vì tôi.
Phục cảm thấy thất vọng. Chàng cứ ngỡ rằng người mà mình đang tìm kiếm sẽ là một vị sư thầy đắc đạo thật sự, một bậc chân tu mà khi gặp sẽ có cảm giác minh triết, giác ngộ. Nhưng những lời nói của người đàn ông trước mặt lại khiến chàng cảm thấy mơ hồ, khó hiểu.
– Vậy theo ông, ý nghĩa của cuộc đời là gì? – Phục hỏi, giọng đầy nghi vấn.
Người đàn ông nhìn Phục với ánh mắt sâu thẳm, rồi mỉm cười nhẹ:
– Ý nghĩa của cuộc đời giống như một câu đố, một dấu hỏi. Con người tìm kiếm câu trả lời, nhưng lại không nhận ra rằng chính họ mới là câu hỏi cũng là câu trả lời.
Một khoảng lặng bao trùm không gian. Phục đứng đó, lặng lẽ nhìn người đàn ông, cảm thấy mình như bị cuốn vào một vòng xoáy không lối thoát. Những suy nghĩ của chàng lấp đầy trong đầu, nhưng vẫn chưa tìm được câu trả lời.
Chàng hỏi một câu mà không thật sự mong đợi lời đáp:
– Ông có nghĩ rằng tu là cứu rỗi tâm hồn và nhân loại?
Người đàn ông mỉm cười, ánh mắt như lấp lánh một sự thấu hiểu nào đó.
– Tôi không biết. Nhưng có một điều tôi chắc chắn, đó là mỗi người chúng ta phải tự tìm ra câu trả lời cho mình. Và câu trả lời ấy có thể khác biệt với mỗi người. Chỉ khi nào ta vượt qua được chính mình, ta mới có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của cuộc sống.
Phục không hỏi gì thêm, chỉ lặng lẽ theo sau người đàn ông. Cả ba người bước đi trong vườn mai. Không gian tĩnh lặng, chỉ còn lại hương thơm của hoa lan phảng phất trong gió.
Mặt trời đã xuống dần, nhưng trong lòng Phục, mọi thứ vẫn còn mơ hồ, như một câu đố chưa có lời giải.
Khi họ đến một khu đất trống bên cạnh một gốc cây cổ thụ, người đàn ông dừng lại, quay lại nhìn Phục và Lan. Lúc này, ánh chiều tà đã hắt lên những tia nắng yếu ớt, chiếu qua lớp lá rừng, tạo thành những vệt sáng mờ ảo trên mặt đất. Không gian như trở nên yên tĩnh đến lạ.
Phục ngước lên nhìn người đàn ông, ánh mắt đầy sự bối rối và tò mò. Chàng có cảm giác mình đã đi quá xa vào một con đường không thể quay lại. Dù vậy, trong lòng vẫn nhen nhóm một tia hy vọng rằng có thể tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi chưa được giải đáp.
– Chúng ta đến đây rồi, – người đàn ông lên tiếng, giọng nhẹ nhàng. – Đây chính là nơi tôi tìm thấy sự bình yên mà mình cần. Còn cậu, có thấy được sự thanh thản trong chính mình chưa?

Phục lặng im, cúi đầu nhìn xuống mặt đất. Trong lòng chàng, một phần muốn từ bỏ, nhưng một phần lại vẫn kiên quyết không từ bỏ. Chàng cảm nhận được sức hút kỳ lạ từ những lời nói của người đàn ông, nhưng cũng đồng thời nhận ra rằng sự "bình yên" này có lẽ không phải thứ mà mình đang tìm kiếm. Dường như có một sự thiếu vắng, một khoảng trống chưa thể lấp đầy.
Lan đứng gần Phục, nhìn thấy sự do dự trong mắt chàng. Cô lên tiếng, nhẹ nhàng:
– Nếu ông không thấy được điều gì đó ở đây, ông có thể tiếp tục đi làm ở những nơi khác, biết đâu ông sẽ tìm được.
Phục nhìn Lan, cảm nhận sự chân thành trong lời nói của cô. Chàng biết rằng, dù có đi đâu, sự tìm kiếm này phải xuất phát từ chính bản thân mình, từ những trải nghiệm và cảm nhận riêng. Không có con đường nào có thể thay thế được cảm giác thấu hiểu và giác ngộ trong lòng.
Chàng quay sang người đàn ông, mở lời:
– Tôi cảm ơn ông đã chỉ cho tôi con đường này, nhưng có lẽ tôi cần phải đi tiếp, tìm kiếm một cái gì đó khác, một câu trả lời khác.
Người đàn ông mỉm cười, đôi mắt như hiểu rõ mọi điều:
– Đúng vậy, mỗi người đều phải tự tìm ra câu trả lời cho mình. Không ai có thể cho cậu câu trả lời sẵn có. Hành trình của cậu sẽ tiếp tục, nhưng hãy nhớ rằng, mỗi bước đi sẽ dạy cho cậu điều gì đó.
Phục cúi đầu, vái chào người đàn ông. Chàng quay lại, bước đi một mình trong bóng chiều, bỏ lại sau lưng những câu hỏi, những mơ hồ về mục tiêu của mình.
Mặt trời đã khuất hẳn sau dãy núi, nhưng trong lòng Phục, một phần ánh sáng nào đó vẫn le lói, dẫn dắt chàng tiếp tục con đường phía trước.

Lan nhìn theo Phục, ánh mắt trầm tư, như thể cô hiểu rằng đây mới là con đường của chàng. Cô khẽ thở dài, rồi quay về cùng gia đình, để lại sau lưng một phần của sự mơ hồ, một phần của một câu chuyện chưa hoàn thành.

Phục đi giữa rừng mai, những bông hoa trắng vẫn tỏa hương ngọt ngào trong không khí. Nhưng trong lòng chàng, chỉ còn lại tiếng bước chân và những suy nghĩ tự hỏi: Liệu mình sẽ tìm thấy gì ở phía trước, ngoài những câu hỏi chưa có lời giải đáp?

Võ Phú

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

EmTự Ngàn Xưa - Thơ; Đinh Hùng - Nhạc: Hoàng Khai Nhan - Song Ca: Ái My & Ngọc Mỹ


Thơ; Đinh Hùng
Nhạc: Hoàng Khai Nhan
Song Ca: Ái My & Ngọc Mỹ

Anh Mơ

 

 

Anh mơ...đến mùa Thu
Sương sa, gió cuốn mịt mù!
Có em...luôn bên cạnh...
Ấm lòng lữ khách viễn du!
Anh mơ...có mùa Thu
Kề vai nhau...chén tạc chén thù
Đường đời...dù muôn vạn nẻo!
Diều nhau ...thoát cảnh âm u!!
Em ơi...suốt đời anh vẫn mơ..
Dù cho tuyết trắng...dáng hững hờ!
Nhưng trong tim...còn hơi ấm...
Cầu xin...chớ đứt giây tơ!
Giấc mơ...nay đã chín mùi...
Gian nan, vất vả...ngược xuôi...
Ông lái đò...quay nhìn sông nước...
Hoàng hôn tím cả...phương trời!
Tạ ơn...đất Mẹ trời Cha
Hương Thu ngây ngất...ngọc ngà...
Lá lìa cành...ấm lòng đất
Chờ Xuân đến...nở ngàn hoa!!


Tô Đình Đài

Tất Cả Đều Là Em

 

Anh ơi, những mùa Đông,
Tuyết rơi trong thành phố,
Tuyết rơi ngoài cánh đồng,
Đường chân trời trắng xóa.

Nhưng anh có biết không,
Dù tuyết nhiều đến thế,
Không thể nhiều bằng em,
Một tâm hồn băng gía.

Những khi em xa anh,
Là bao cơn bão tuyết,
Là bao gío lạnh căm,
Đâu vì mùa Đông đến 

Anh ơi, biển mênh mông,
Sóng lớn và sóng nhỏ,
Đứng trước biển bềnh bồng,
Biển cùng em chia sẻ.

Biển không thể nào cạn,
Sóng không thể nào thôi,
Em tâm hồn lãng mạn,
Là biển sóng cả đời.

Khi đất trời yên tĩnh,
Một ngày không nắng mưa,
Nhưng em lại mong ước,
Anh là mưa nắng về.

Bỗng hôm nào núi lửa,
Giấc trăm năm trở mình,
Bỗng trần gian mở cửa,
Cho em được gặp anh.

Khói bụi và lửa đỏ,
Che một khỏang trời xanh,
Nóng bỏng tình em đó,
Cháy lòng em yêu anh..

Những màu sắc cuộc đời,
Tranh tối và tranh sáng,
Buồn vui một kiếp người,
Sự sống và sự chết.

Đường âm ty chưa đến,
Nhưng có lúc khổ đau,
Em đã thấy mộ huyệt,
Hương khói trong chiêm bao.

Nhớ thương và tuyệt vọng,
Tất cả đều là em,
Anh và em xa lắm,
Giữa hai bờ nhân duyên.

Nguyễn Thị Thanh Dương.

Điển Tích:Lá Thắm


Điển tích “LÁ THẮM” được sử dụng rất nhiều và rất rộng rãi trong văn chương Việt Nam. Phần đầu Truyện Kiều, khi dò la chỗ ở của Thúy Kiều, Kim Trọng đã đụng phải:

Thăm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng LÁ THẮM dứt đường chim xanh!

Lá Thắm là từ Nôm của từ “Hồng Diệp紅葉” là Lá đỏ thắm; mà Hồng Diệp lại là từ nói gọn lại của nhóm từ “Hồng Diệp Đề Thi 紅葉題詩” là “Lá Đỏ Đề Thơ”, hay là “Thơ Bài Lá Đỏ” như trong thơ của Hoàng Sĩ Khải:

Thực nhân tình THƠ BÀI LÁ ĐỎ,
Mạch sầu kia hầu tỏ cùng ai.

lắm lúc lại được nói trại đi thành “Thả Lá Doành Câu” như trong Bích Câu Kỳ Ngộ là :

Trông hoa lặng ngắt giờ lâu,
Ấy ai THẢ LÁ DOÀNH CÂU ghẹo người?!

Hồng Diệp đôi khi còn được nói thành nửa Hán nửa Nôm là “Lá Hồng”, như thơ của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện:

Gớm nơi ngôi bảng duềnh khơi,
LÁ HỒNG bỗng đến chi nơi nổi chìm.

Hồng Diệp còn thường đi chung với Xích Thằng, thành “Hồng Diệp Xích Thằng紅葉赤繩”, như lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng :

Nàng rằng : HỒNG DIỆP Xích Thằng,
Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri!

Và như trong Tây Sương Ký:

Sự đâu nói gió bàn trăng,
Mà nghe HỒNG DIỆP Xích Thằng như chơi!

Hồng Diệp Xích Thằng nói Nôm na thành ra “Lá Thắm Chỉ Hồng”, cũng lời của Thúy Kiều nói với Kim Trọng khi Kim tỏ tình :

Dù cho LÁ THẮM Chỉ Hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

Ta thấy, điển tích Lá Thắm được sử dụng hết sức rộng rãi trong văn học cổ Việt Nam ta, và được biến thể rất đa dạng từ Hồng Diệp đến Lá Thắm, Lá Hồng, Hồng Diệp Đề Thi, Thư Bài Lá Đỏ, Hồng Diệp Xích Thằng … Nên muốn hiểu hết, cảm nhận hết ý nghĩa của các câu thơ trên, ta phải tìm hiểu xuất xứ của điển tích này để thấy được hết cái hay, cái ý vị hàm chứa trong các câu thơ đó.

Có 3 xuất xứ cho điển tích LÁ THẮM như sau:

1. Theo THỊ NHI TIỂU DANH LỤC:

Con gái nuôi của tài nhân nhà Phụng Ân Vương đời Đường là Phượng Nhi thường đề thơ trên lá đỏ, rồi thả trên dòng nước từ cung vua trôi ra ngoài. Tiến sĩ Giả Toàn Hư bắt được lá. Quan Kim Ngô tâu việc ấy lên vua. Nhà vua bèn gả Phượng Nhi cho Giả Toàn Hư và phong cho chức Kim Ngô.

2. Theo sách VĂN KHÊ HỮU NGHỊ:

Thư sinh Lư Ốc đi ngang qua ngự câu ( dòng nước chảy từ cung vua ra ngoài ), Ngẫu nhiên vớt được một chiếc lá đỏ trên đó có đề một bài thơ. Ốc nâng niu và cất vào trong tráp. Khi vua Đường thải cung nữ cho đi lấy chồng. Lư Ốc lấy được một cô, lại đúng là người thả chiếc lá kia. Lúc trông thấy chiếc lá đỏ trong trap, người vợ nói :” Khi ấy thiếp chỉ ngẫu nhiên đề thơ, không ngờ chàng lại chính là người đã bắt được !”.

3. Theo THANH TỎA CAO NGHI và THÁI BÌNH QUẢNG KÝ:

Cung nhân Hàn Thị đề một bài thơ trên lá đỏ, thả trên dòng nước từ cung vua trôi ra ngoài. Thư sinh Vu Hựu nhặt được đem cất đi. Hựu lại viết hai câu thơ, rồi đợi nước lớn thả ngược vào trong cung. Hàn Thị bắt được lá cũng cất vào trong rương. Sau vua Đường cho thải ba ngàn cung nhân, Hàn Thị được thải ra và rất tình cờ lấy được Vu Hựu làm chồng. Khi phát hiện ra lá đỏ của nhau, vợ cùng cùng cảm kích mà nói:” Chúng ta phải tạ ơn cho hai người mai mối, chính là hai cái lá đỏ nầy đây “.

Cả ba xuất xứ trên của điển tích Lá Thắm đều có nội dung tương tự như nhau. Nhưng truyền tụng rộng rãi trong dân gian và được mọi người yêu thích nhất là Xuất Xứ Thứ 3 : Truyện của chàng thư sinh Vu Hựu và cung nhân Hàn Thị. Truyện được kể như sau :

Đời vua Đường Hi Tông (874-888). Thiên hạ loạn lạc. Giặc giã nổi lên khắp nơi, vì thế mà kẻ sĩ là những người chân yếu tay mềm đều nhập kinh lánh nạn, một số cũng nhân cơ hội nầy đợi kỳ ứng thí để tìm chút công danh. Trong số đó có chàng nho sinh Vu Hựu.

Sau khi lưu lạc ở đất Trường An, Vu Hựu cũng không tìm được việc làm thích hợp. Chàng hay lang thang đi về những nơi hẻo lánh của chốn kinh thành. Một buổi chiều thu, khi thả bộ bên dòng Ngự câu từ trong cung chảy ra, ngắm những lá phong vàng bị gió thu cuốn rơi lả tả trôi theo dòng nước. Cảm khái với thân phận của mình cũng giống như những chiếc lá vàng kia. Chàng bèn ngồi xuống một tảng đá bên bờ ngự câu mà nhìn lá rơi nước cuốn. Những chiếc lá phong đỏ rực lắp lánh bên dòng nước thu hút sự chú ý của chàng. Chàng chợt thấy thắp thoáng trên một chiếc lá phong ẩn hiện như có dòng chữ viết, bèn vội vả vớt lên xem, thì thấy có bốn câu Ngũ ngôn Tứ tuyệt sau đây :


Lưu thuỷ hà thái cấp ? 流水何太急?
Thâm cung tận nhật nhàn. 深宮盡日閒。
Ân cần tạ hồng diệp, 殷勤謝紅葉,
Hảo khứ đáo nhân gian ! 好去到人間!

Có nghĩa:

Nước chảy sao vội thế?
Trong cung suốt buổi nhàn.
Ân cần nhờ là đỏ,
Đưa đến chốn nhơn gian!

Lời thơ thanh tân mà chất chứa bao nỗi u ẩn ở trong lòng : Nước ơi, sao mà chảy vội vả thế, trong cung cấm ta nhàn rỗi suốt cả ngày, nên mới ân cần nhờ chiếc lá đỏ gởi những dòng tâm sự nầy ra đến cỏi dân gian ! Vu Hựu cảm thương cho người cung nữ tài hoa, nàng đã gọi thế giới bên ngoài là " Nhơn Gian ", thế thì ở trong cung cấm là gì ?" Địa Ngục " sao ?. Chàng cứ ray rức ngẩn ngơ thương cho nàng cung nữa bất hạnh, bèn lên phía thượng lưu của ngự câu, chọn một chiếc lá thật đẹp, rồi thả trở vào cung hai câu thơ thất ngôn sau đây :

Tằng văn diệp thượng đề hồng oán, 曾聞葉上題紅怨
Diệp thượng đề thi ký A thùy ? 葉上題詩寄阿誰?

Có nghĩa:

Từng nghe lá đỏ đề thơ oán,
Lá đỏ đề thơ gởi đếm ai?

Bạn bè biết được sự si tình của Vu Hựu, lại chế giễu chàng bằng hai câu thơ sau :

Quân ân bất cấm đông lưu thủy, 君恩不禁東流水
Lưu xuất cung tình thị thử câu. 流出宮情是此溝.

Có nghĩa:

Vua không ngăn nước về đông,
Thả tình cung cấm theo dòng chảy ra!

Mặc cho bạn bè cười cợt, Vu Hựu vẫn mang chiếc lá về cất kỹ trong rương. Rồi từ đó về sau chàng đi thi mãi mà vẫn không đậu đạt gì cả. Vì cuộc sống khó khăn nên chàng mới xin vào làm gia khách, gia sư cho một qúy nhân ở Hà Trung là Hàn Vĩnh. Hàn rất kính trọng về nhân phẩm và học vấn của Vu Hựu nên đối với chàng rất tốt.

Mười năm sau, trong cung vua thải ra ba ngàn cung nhân, cho về quê lấy chồng sinh sống. Trong số đó có Hàn Thị là em họ của Hàn Vĩnh. Vĩnh biết Hựu chưa lập gia đình nên mới làm mai Hàn Thị cho chàng. Hàn Thị ở trong cung lâu ngày nên cũng tích lũy được một ít tài vật, lại có nhan sắc. Vu Hựu vốn là thư sinh cùng đồ mạt vận, nay bỗng được vợ đẹp lại có của thì còn gì sung sướng cho bằng. Còn Hàn Thị thì ngoài ba mươi mới lấy chồng, nên hết lòng thương yêu chăm sóc cho Vu Hựu. Sau tân hôn họ sống với nhau rất là hạnh phúc.

Một hôm, Hàn Thị sắp xếp lại sách vở cho chồng, bỗng phát hiện ra chiếc lá đỏ có đề thơ của mình được kẹp trong một quyển sách. Nàng rất ngạc nhiên mà hỏi chàng về lai lịch của chiếc lá. Vu Hựu bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện ngày xưa. Hàn Thị bèn cho chàng biết đó là bài thơ của mình, đồng thời cũng lấy từ trong trap ra chiếc lá có hai câu thơ của Vu Hựu mà nàng đã vớt được sau đó. Cả hai đều rất kinh ngạc và cảm khái cho duyên số đã an bài. Hàn Thị bèn từ trong trap lấy ra thêm một bài thơ nữa và nói với chồng rằng : “Đây là bài thơ của thiếp làm sau khi vớt được chiếc lá của chàng!”. Vu Hựu bèn đọc bài thơ như sau :

Độc bộ thiên câu ngạn, 獨步天溝岸,
Lâm lưu đắc diệp thì. 臨流得葉時.
Thử tình thùy khả đắc, 此情誰可得,
Trường đoản nhất liên thi ! 腸斷一聯詩 !

Có nghĩa:

Lẻ loi bước giữa dòng câu,
Bên bờ vớt lá nghe sầu mênh mang.
Tình nầy ai thấu can tràng,
Đau lòng cung nữ đôi hàng thơ ai!

Hôm sau, vợ chồng Vu Hựu bèn đem chuyện Lá Đỏ Đề Thơ nói cho Hàn Vĩnh biết. Nghe xong Hàn Vĩnh cả cười, cầm bút lên viết ngay một bài thất ngôn tuyệt cú như sau :

Nhất liên giai cú tùy lưu thủy, 一聯佳句題流水,
Thập tải u tư mãn tố hoài. 十載幽思滿素懷.
Kim nhật khước thành loan phượng hữu, 今日卻成鸞鳳友,
Phương tri hồng diệp thị lương mai. 方知紅葉是良媒.

Có nghĩa:

Đôi câu thơ đẹp chảy theo dòng,
Ấp ủ lòng son suốt chục năm.
May mắn hôm nay loan phụng hợp,
Mới hay lá đỏ chính mai dong!

Sau đó, Hàn Vĩnh còn cho tổ chức một Hồng Diệp Hội ( một Party về Lá Đỏ ) cho hai vợ chồng Vu Hựu và còn công khai chuyện Lá Đỏ Đề Thơ ra ngoài. Các văn nhân thi sĩ ở Trường An lúc bấy giờ hưởng ứng rất đông. Trong số văn thơ xướng họa, nổi tiếng nhất có bài thất ngôn tứ tuyệt của thi sĩ Cố Huống như sau :

Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi, 花落深宮鶯亦悲,
Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì. 上陽宮女斷腸時。
Quân ân bất bế đông lưu thủy, 君恩不閉東流水,
Diệp thượng đề thi ký dữ thuỳ ? 葉上題詩寄與誰?

Có nghĩa:

Hoa rụng thâm cung oanh cũng sầu,
Thượng Dương cung nữ quặn lòng đau.
Ơn vua không bế dòng lưu thuỷ,
Trên lá đề thơ gởi đến đâu?!

Chẳng bao lâu sau, gặp loạn Hoàng Sào. Đường Hi Tông cùng bá quan văn võ lià bỏ kinh thành chạy loạn vào đất Thục. Vợ chồng Vu Hựu cũng cùng với Hàn Vĩnh theo phò giá. Vì trước kia từng ở trong cung nên rất am tường về nề nếp sinh hoạt của hoàng gia, vì thế Hàn Thị được vua triệu kiến. Nhà vua bèn hỏi nàng về chuyện đề thơ trên lá. Hàn Thị bèn kể lại chuyện mình. Vua lại triệu kiến Vu Hựu. Thấy chàng ăn nói chửng chạc đối đáp lưu loát, có văn tài, bèn cho theo làm tùy tùng bên cạnh vua.

Khi loạn Hoàng Sào được dẹp yên. Vu Hựu vì theo phò giá có công, nên được phong làm Thần Sách Quân Ngu Hầu. Mặc dù quan chức không lớn, nhưng khi trở lại trường an, vợ chồng Vu Hựu nổi tiếng với câu cuyện Lá Đỏ Đề Thơ của mình. Họ sống với nhau trong phú qúy hạnh phúc và mặc dù đã trên ba mươi mới lấy chồng, Hàn Thị vẫn sinh được năm trai hai gái. Đến khi con cái lớn lên thành đạt cả rồi mà câu chuyện Lá Đỏ Đề Thơ vẫn còn được dân gian nhắc mãi.

Tương truyền là Hàn Thị mất trước. Trước lúc lâm chung, bà còn yêu cầu chồng cho chôn chung chiếc lá đỏ với mình. Lá đỏ giờ đã phai màu, nhưng câu chuyện “Hồng Diệp Đề Thi “ của họ vẫn thắm đượm mãi trong dân gian…

Lúc bấy giờ, Thừa Tướng đương triều là Trương Tuấn張濬biết được việc nầy đã cảm khái mà viết nên bài ca sau đây:

Trường an bách vạn hộ, 長安百萬戶,
Ngự thủy nhật đông chú. 御水日東注。
Thủy thượng hữu hồng diệp, 水上有紅葉,
Tử độc đắc giai cú. 子獨得佳句。
Tử phục đề thoát diệp, 子復題脫葉,
Lưu nhập cung trung khứ. 流入宮中去。
Hán cung thiên vạn nhân, 漢宮千萬人,
Diệp quy Hàn Thị xứ. 葉歸韓氏處.
Xuất cung tam thiên nhân, 出宮三千人,
Hàn Thị tịch trung số. 韓氏藉中數。
Hồi thủ tạ quân ân, 回首謝君恩,
Lệ sái yên chi vũ. 淚灑胭脂雨。
Ngụ cư qúy nhân gia, 寓居貴人家,
Phương dữ tử tương ngộ, 方與子相遇。
Thông môi lục lễ cụ, 通媒六禮俱。
Bách tuế vi phu phụ. 百歲為夫婦。
Nhi nữ mãn nhản tiền, 兒女滿眼前,
Thanh tử doanh môn hộ. 青紫盈門戶。
Tư sự tự tiền vô, 茲事自前無,
Khả dĩ truyền thiên cổ ! 可以傳千古!

DIỄN NÔM:

Thành Trường An dân đông bách hộ,
Dòng ngự câu vẫn đổ về đông.
Chảy xuôi lá đỏ theo dòng,
Chàng Vu bắt được bâng khuâng sớm chiều.

Viết đôi câu đánh liều thả ngược,
Trôi vào cung theo nước phản hồi.
Lãnh cung nhan nhản những người,
Lá về Hàn Thị tìm vui cung buồn.

Thải về nguồn ba ngàn cung nữ,
Hàn Thị về vui chữ đoàn viên.
Cúi đầu lạy tạ ơn trên,
Lệ rơi ướt má hết phiền hết lo.

Đem thân trọ nhà anh Hàn Vĩnh,
Gặp chàng Vu định mối lương duyên.
Mối mai sáu lễ đã yên,
Trăm năm chồng vợ phỉ nguyền sánh đôi.

Con đàn cháu đống thảnh thơi,
Nên danh áo tía lộc trời vinh hoa.
Duyên lành LÁ ĐỎ đồn xa,
Lưu danh thiên cổ ai mà chẳng khen!

Sau bài ca nầy, câu chuyện “Hồng Diệp Nhân Duyên “(Nhân duyên nhờ vào lá đỏ) của Vu Hựu và Hàn Thị được loan truyền khắp cả nước và … mãi mãi cho đến ngày nay!

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
***
ĐIỂN TÍCH “LÁ THẮM VÀ CHỈ HỒNG”
(Bs Phan Thượng Hải)

Trong lương duyên vợ chồng, văn học sử thường dùng 2 điển tích “Lá Thắm và Chỉ Hồng” (Hồng Diệp và Xích Thằng).

* Lá Thắm (Hồng Diệp)

Đời Đường Hy Tông, thư sinh Vu Hựu nhặt được 1 chiếc Lá thắm (lá đỏ) trôi theo dòng nước từ cung vua ra ngoài. Trên chiếc lá đỏ nầy có ghi một bài thơ, có lẽ từ một cung nữ:

Lưu thủy hà thái cấp
Thâm cung tận nhật nhàn
Ân cần tạ hồng diệp*
Hảo khứ đáo nhân gian.

(Trần Trọng San dịch)

Nước chảy sao mà vội
Thâm cung suốt buổi nhàn
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi đến tận nhân gian.

Vu Hựu cũng làm 1 bài thơ ghi trên lá đỏ thả theo dòng nước vào cung:

Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng dương cung nữ đoạn trường thì
Quân ân bất cấm đông lưu thủy
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy?

(Trần Trọng San dịch)

Ngắm liễu nghe oanh thoáng cảm hoài
Cung cấm người đương buổi ngậm ngùi
Nước trôi không xiết tâm tình ấy
Trên lá thơ đề gửi đến ai?

Mười năm sau, Đường Hy Tông cho một số cung nữ xuất cung về sống đời thường dân. Hàn Thúy Tần là 1 trong số cung nữ nầy về ở với quyến thuộc và kết duyên với Vu Hựu. Vu Hựu tình cờ khám phá vợ mình có chiếc lá đỏ đề thơ của mình và nàng cũng là tác giả của bài thơ kia.
Nhờ chiếc lá thắm (hồng diệp) như là cái duyên tiền định của 2 người.
Hàn Thúy Tần sau khi thành gia thất với Vu Hựu có làm thêm bài thơ:

Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng thiệp thị lương mai.

(Trần Trọng San dịch)

Đôi câu thơ thả theo làn nước
Tâm sự mười năm chất chứa đầy
Ngày nay đã kết nên loan phượng
Mới hay lá thắm thuận duyên may.

* Chỉ Hồng (Xích Thằng)

Ngoài câu chuyện và những bài thơ về "Lá thắm", còn có câu chuyện về "Chỉ hồng":

Vi Cố gặp 1 ông già xách cái túi đựng chỉ hồng (xích thằng) và có cuốn sách cho biết có tên Vi Cố sẽ kết duyên (nối chỉ hồng) với 1 cô gái nhỏ tuổi con nhà hàng rau rách rưới. Ông già nầy là Nguyệt lão và cuốn sách nầy là Hôn thư. Vi Cố không tin nhưng quả thật nhiều năm sau đó ông lấy vợ chính là cô gái nầy.

*
Từ đó, văn học Việt Nam có những câu thơ về lương duyên vợ chồng dùng điển cố “Lá thắm và Chỉ hồng”:

Lá hồng ra mối chỉ hồng
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen
(Bích Câu Kỳ Ngộ)

Nhận ra trong lá thơ đề
Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm
(Bích Câu Kỳ Ngộ)

Ba sinh cho vẹn mười nguyền
Nhờ tay kim tướng đem duyên xích thằng*
(Bích Câu Kỳ Ngộ)

Sinh vừa tựa liễu nương cây
Lá hồng đâu đã thổi bay tới gần
Mắt coi mới tỏ dần dần
Mấy dòng chữ viết ba vần bốn câu
Trông qua lặng ngắt giờ lâu
Ấy ai thả lá doành câu ghẹo người
(Bích Câu Kỳ Ngộ)

Dù khi lá thắm chỉ hồng*
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
(Đoạn Trường Tân Thanh)

* Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ và Ngọc Hân Công Chúa

Năm 1786, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ của nhà Tây Sơn ra Bắc Hà, đem theo 2 ông Vũ Văn Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh, tấn công chúa Trịnh.

Ông Nguyễn Huệ sai ông Nguyễn Hữu Chỉnh đi trước theo đường biển vào cửa Đại An của sông Đáy theo sông Nam Định đến sông Hồng rồi chiếm kho lương ở Vị Hoàng (vùng đất có khúc sông nhỏ cùng tên chảy từ sông Hồng vào Nam Định). Biết quân chúa Trịnh chưa kịp phòng thủ, ông Nguyễn Huệ theo đường bộ qua Nghệ Tĩnh và Thanh Hóa đến hội ở Vị Hoàng.

Từ Vị Hoàng, quân Tây Sơn đánh bại bộ binh của ông Bùi Thế Dận ở Đông An (gần Hưng Yên?) và đánh bại thủy quân của ông Đinh Tích Nhưỡng ở góc sông Luộc và sông Hồng. Quân Tây Sơn lại thắng quân của chúa Trịnh Tông (Trịnh Khải) và ông Hoàng Phùng Cơ ở hồ Vạn Xuân (thuộc Thanh Trì, Hà Nội).

Chúa Trịnh Tông chạy về Sơn Tây nhưng bị tên Nguyễn Trang bắt giải về nộp cho Tây Sơn. Chúa Trịnh Tông dùng gươm cắt cổ tự tận. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho tống táng chúa Trịnh Tông và vào Thăng Long chầu vua Lê Hiển Tông.

Sau khi cưới Ngọc Hân Công chúa (con Lê Hiển Tông) rồi Hiển Tông mất và cháu nội là Duy Kỳ lên ngôi là vua Lê Chiêu Thống, ông Nguyễn Huệ và Vũ Văn Nhậm về Phú Xuân (Huế) và để ông Nguyễn Hữu Chỉnh giữ Nghệ An.

Người Bắc Hà không thích cuộc hôn nhân nầy giữa ông Nguyễn Huệ và Công chúa Ngọc Hân. Ông Nguyễn Thì Thấu (con của Nguyễn Thế, đã từng là quân sư của Hoàng tử Lê Duy Mật chống lại Chúa Trịnh) có làm bài "Kỹ thuật thời sự", trong đó có những câu thơ nói về Công chúa Ngọc Hân trong hôn nhân nầy:

Ngựa thồ thay mối xích thằng*
Ông Tơ bà Nguyệt dẫu giằng, chẳng ra
Một ngày một vắng quê nhà
Sáng từng từng nhớ, tối tà tà trong.

Bs Phan Thượng Hả biên soạn

Tài Liệu Tham Khảo (trong phanthuonghai.com)

1) Điển Cố Từ Thơ (Bs Phan Thượng Hải)
2) Thơ và Sử Việt - Nhà Nguyễn (Bs Phan Thượng Hải)

 

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

Tình Vào Thu - Nhạc & Lời: Nguyễn Tâm Hàn - Tiếng Hát: Ngọc Quy


Nhạc & Lời: Nguyễn Tâm Hàn
Tiếng Hát: Ngọc Quy
Thực Hiện: Đặng Hùng

Thu Ca - Điệu Ru Cô Đơn

(Cảm xúc từ tiếng hát Thái Thanh
* Lời nhạc của Nhạc Sĩ Phạm Duy)

Mùa thu nức nở tiếng thở dài *
Vỹ cầm vang vọng khúc Thu Ca
Ngồi đây tưởng nhớ ngày xưa cũ
Ấp ủ những gì của chúng ta

Tiếng lá lao xao hay tiếng lòng
Trời ơi không! Điệu Ru Cô Đơn
Như hờn oán trách mùa thu đã
Ngập lá vàng rơi lấp mộ chôn

Chôn hết cả thời ta có nhau
Còn đây mỗi một vết thương sâu
Còn đây chiếc lá thu vàng úa
Chạnh mối u hoài lá chết khô

Lòng ta khốn khổ với mỏi mòn *

Kim Phượng