Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2024

Tin Yêu


Tiếng đàn réo rắt trong đêm vắng
Thoang thoảng hương đêm tiếng vọng về
Ơi hỡi hòa mình câu khấn nguyện
Lời con van Chúa vượt cơn mê

Khúc nhạc hoan ca tận hiến Ngài
Dâng hoa rộ nở sắc trao tay
Đầy ơn cứu độ hoài mong đợi
Thinh lặng hoa lòng say đắm say

Mong đấng toàn năng đấng giáng trần
Cao cung âm điệu tiếng vang ngân
Ru người dương thế rày cung kính
Sao sáng soi đường thánh ý vâng


Thơ & Ảnh: Kim Phượng
Các Loài Hoa Biểu Tượng của Úc Châu


Tình Yêu Bên Giáo Đường

  

Chấp tay khấn nguyện Trời cao
Cho tình son sắt đẹp màu thời gian
Đường đời bao nỗi nguy nan
Tâm đầu ý hiệp vượt ngàn phong ba
Lòng Chúa thương xót chúng ta
Hồng ân ban phúc tình già keo sơn!

Kim Oanh

Mừng Chúa Giáng Sinh


Giáng Sinh nhạc Thánh trỗi âm vang
Mừng Chúa ra đời cứu thế gian
Khói lửa bốn phương bao thảm họa
Binh đao khắp chốn kẻ lâm nàn
Tình người nối lại vòng tay ấm
Bốn bể an vui cảnh hợp đàn
Máng Cỏ Hài Đồng người xuống thế
Tình thương hàn gắn khúc ly tan...

Ngư Sĩ

Mừng Chúa Giáng Sinh



(Liên hoàn nhị khúc)

Cố rảo về nhà chân bước nhanh
Ngoài hiên loang loáng tận song mành
Rừng thông tuyết bám màu như ảnh
Đường phố đèn giăng cảnh tựa tranh
Bài Thánh Ca vang lòng hạnh phúc
Hồi chuông tháp vọng dạ an lành
Đêm Đông giá lạnh mà thương lúc
Máng cỏ hang lừa Đức Mẹ sanh

Máng cỏ hang lừa Đức Mẹ sanh
Phúc âm cứu rỗi đến dân lành
Ba Vua kính viếng bình minh rạng
Thiên Sứ ca rền khúc nhạc thanh
Đêm Thánh Vô Cùng vang khắp chốn
Sông Ngân bát ngát rọi bên mành
Giáo đường hực hỡ đèn giăng mắc
Khắp mọi nơi mừng Chúa Giáng Sanh


ThanhSong ntkp

Lễ Giáng Sinh - Chúa Giêsu Có Mừng Lễ Gáng Sinh Không?

     Lễ Giáng Sinh là một ngày mà hầu hết mọi Kito hữu đều coi là lễ mừng Chúa Giêsu sinh ra. Nhưng chính Chúa Giêsu Kito có mừng lễ này theo cách thức ấy không? Ngài có tham dự vào ngày lễ hội này không, có ăn mừng với muc đích để vinh danh Ngài không? Ngài nhận thấy việc chúng ta hiện nay mừng lễ thế nào, có gì khác với Ngài không? 

     Bàn về Lễ Giáng Sinh thì đã có nhiều người nói rồi. Đủ thứ kiểu và theo truyền thống đủ loại từ Âu sang Á, Tây Nam Bắc Mỹ v.v. đã  được kể ra. Hàng năm có cả hàng triệu người trên khắp thế giới bất kể theo tôn giáo nào đã “coi lễ này là thời gian kỳ diệu và thật lạ lùng của năm.” Nhưng, Chúa Giêsu -giả như Chúa cũng mừng lễ này thì Ngài sẽ mừng thế nào? Đây quả là câu hỏi rất hay. Nếu Chúa trở lại trái đất hôm nay thì Ngài có mừng lễ này và chấp nhận sư vinh danh mình như chúng ta thường làm không?

     Chúa đã nói, “Ta đến là để làm chứng cho Sự Thật” (Ga 18:37), và Ngài cũng quả quyết “Lời Ta là thật” (Ga 17:17). Sau này mọi việc về Ngài đã được chứng minh rõ nét trong Kinh Thánh và không thể bị hủy bỏ (Ga 5:39; 10:35). Để biết rõ sự thật theo ý nghĩa tôn giáo, chúng ta thử xem xét cẩn thận bất cứ một tư tưởng nào sự kiện gì có trong Kinh Thánh. Vì thánh Phaolo tông đồ đã khuyên “Hãy thử và cân nhắc tất cả mọi sự, điều gì tốt thì phải giữ lấy” (1Tx 5:21,..)

     Lễ Giáng Sinh và truyền thống giáng sinh có trong Kinh Thánh không? Nó có đúng với những nguyên tắc của Kinh Thánh không? Phải chăng ngày lễ nghỉ này là một tập tục của Giáo Hội sơ khai? Nó có phải là cái gì mà Chúa Giêsu phải giữ mà không thể bỏ đi được không?      

Nguồn gốc của ngày lễ nghĩ

     Đây là lễ theo nhiều tập tục về tôn giáo mà chúng ta đang giữ. Không lẽ chỉ vì nó xưa cổ và được nhiều người ưa thích lại không đúng mà phải giữ lại sao? Phải chăng cần có can đảm để tuân theo những gì là dư âm hay có liên hệ đến Kinh Thánh!

     Danh từ “Chrismas” mà Việt Nam dịch là Lễ Giáng Sinh tự nó cho thấy là do con người tạo ra -có ý nghĩa lễ Chúa Kito củả đạo Công Giáo La Mã. Theo tự điển Catholic Encyclopedia: “ Chrismas là danh từ tiếng Anh cổ là Criste Maesses -là lễ Chúa Kito xuất hiện trước tiên vào năm 1038 và Cristes-messe, năm 1131... Chrismas không thấy có trong những lễ hội của Giáo Hội” (xem “Chrismas” online edition).

     Danh từ mass thì có từ nghi lễ màu nhiệm của người ngoại giáo hơn là nhắc lại sự hy sinh của Chúa Kito như đã được tuyên bố. Ngoài ra, chính ngày nghỉ thì không có nguồn gốc từ Chúa Giêsu hay những môn đệ của Ngài nhưng do việc mừng lễ của người ngoại giáo có từ trước thời Kito giáo.

     Chúa Giêsu cũng không sinh ra vào mùa Đông. Kinh Thánh nói Chúa sinh ra khi những người chăn chiên vẫn còn ở ngoài đồng vào ban đêm để chăm sóc đàn súc vật của mình (Lc 2:8). Tuy nhiên Lễ Giáng sinh lại có vào tháng 12 ngày 25 khi mà nhiệt độ ở Israel có thể xuống thấp lạnh đông thành đá.

     Bình luận của Adam’s Clarke như sau: “Khi những người chăn chiên này chưa đem súc vật về nhà thì có nghĩa là chưa tới tháng 10, vì vậy Chúa không thể sinh vào ngày 25 tháng 12 được là lúc không còn súc vật ở ngoài đồng. Chúa cũng không thể sinh chậm hơn tháng 9 vì súc vật vẫn còn ở ngoài đồng vào ban đêm. Vậy việc Chúa Sinh Ra không thể xẩy ra vào tháng 12 được. Cho súc vật ăn vào ban đêm ở ngoài đồng là vấn đề thời gian cần phải được bàn luận tranh cãi. (coi Lc 2:8).

     Vậy thì tại sao lễ Giáng Sinh lại xẩy ra vào ngày 25 tháng 12 hàng năm? Sử gia của giáo hội Anh là Henry Chadwick đã cắt nghĩa: “Trước thế kỷ 4, lúc đó ở miền Tây -khởi đầu và bởi ai thì không được biết- người ta lấy ngày 25 tháng 12 giờ đông chí là ngày sinh nhật Mặt Trời chúa làm ngày sinh nhật của Chúa Kito.” (The early Church, 1967 p.126).

     Từ điển Oxford của Anh giáo (1983, p.281) sau này cũng cho biết: ‘Mừng lễ Giáng Sinh - Christmas luôn luôn là để vui mừng, merry hồi xưa là đặc tính cùa hội thần Saturnalia thời cổ La mã với cuộc vui chơi chè chén ồn ào, cảnh truy hoan trác táng. Nó đã phát triển và lan rộng đến nhiều nơi tại Anh quốc vào thế kỷ 19 do ông hoàng Prince Consort làm theo phong tục Đức -chẳng hạn như những cây Giáng Sinh / Christmas trees vậy.”

Mừng lễ Giáng sinh-Chrismas có thực sự để tôn vinh Chúa Giêsu không?

     Thiên Chúa đã đặc biệt cảnh báo dân Ngài là không được bắt chước cách thức thực hành lễ hội của dân ngoại để vinh danh Ngài và Ngài cũng không nhận kiểu thờ phượng như vậy (Dnl 12:29-32). Nhưng về việc này Chúa Giêsu cũng không dùng luật của Thiên Chúa để hủy bỏ nó.

     Chúa Giêsu đã cảnh báo dân Chúa khi họ tôn vinh Thiên Chúa mà vẫn giữ những luật lệ và tuyền thống của loài người thay cho những giới răn mà Thiên Chúa đã truyền dạy; Ngài tuyên bố: “Chúng có thờ phượng Ta cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân...Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc 7:7-9).

     Ngài cũng báo động, “Không phải ai nói với ta lạy Chúa! lạy Chúa! mà vào được thiên đàng đâu, mà là những kẻ làm theo ý của Cha ta ở trên thiên đàng. Nhiều người sẽ nói với ta vào ngày đó là ‘Lạy Chúa! lạy Chúa! Phải chăng con đã từng nhân danh Ngài mà nói tiên tri, trừ ma quỉ và làm nhiều điều lạ kỳ hay sao? Nhưng Ta đã tuyên bố với chúng là “Ta không bao giờ biết ngươi; rời khỏi cho khuất mắt Ta,  ngươi là kẻ gian ác vô kỷ luật!’” (Mt 7:21-23). Vô kỷ luật -theo Kinh Thánh- đơn giản chỉ là vi phạm hoặc coi thường luật lệ của Thiên Chúa (1Ga 3:4).

     Chúa Kito luôn luôn vâng lời những giới răn của Cha Ngài. Chúa nói: “Nếu bạn giữ giới răn của ta, bạn sẽ được ta che chở vì ta yêu thương ngươi, như thể Ta giữ giới răn của Cha Ta và ở trong tình yêu thương của Ngài” (Ga 15:10). Ngài đã nói với các môn đệ là “Hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ phải tuân theo mọi sự mà Ta đã truyền dạy cho ngươi. Và vì vậy ta sẽ luôn luôn ở với các ngươi cho đến ngày tận thế.” (Mt 28:19-20).

     Trong Tân Ước chúng ta không thấy các môn đệ mừng sinh nhật Chúa Kito, cũng không thấy một giảng huấn nào của Chúa Giêsu hay của các tông đồ nói về việc đó. Tương tư vậy sau này thánh Phaolo đã cảnh báo cộng đồng tín hữu Colose là đừng theo những truyền thống và luật lệ của người đời: “Anh em đã chết với Chúa Kito và được giải thoát khỏi các nguyên tắc căn bản của vũ trụ, tại sao, vì sống trong vũ trụ anh em lại là chủ thể của những nguyên tắc đó-‘Đừng ăn cái này, đừng nếm cái kia, đừng đụng vào cái nọ’ toàn những cấm đoán về những cái mà đụng vào là hư -đó chỉ là những giới luật và giáo huấn của người phàm.” (Cl 2: 20-22). 

Lễ hội trong Kinh Thánh mà Chúa Giêsu và các tông đồ đã mừng

     Đặc biệt trong Tân Ước có một lễ nằm trong luật của Chúa mà Chúa Giêsu nói Chúng ta phải giữ để nhớ đến Ngài -lại không phải là lễ Giáng Sinh.

     Ngài nói rõ ràng với các môn đệ là phải giữ Lễ Vượt Qua để vinh danh Ngài: “Và ngài nói với họ, ‘Ta ước ao ăn mừng lễ vượt qua này với các con trước khi ta chịu khổ hình, vì ta không còn ăn mừng lễ này với các con nữa cho đến khi lễ này trở nên trọn vẹn, hoàn thành trong nước Thiên Chúa’ -có nghĩa là Ngài sẽ giữ lễ này với tất cả những ai tin vào Ngài khi ngài trở lại... Rồi ngài cầm lấy bánh, tạ ơn Thiên Chúa và bẻ ra và trao cho họ và nói rằng ‘Đây là mình ta hy sinh vì anh em, hãy làm như vậy để nhớ đến ta’” (Lc 22:15-16, 19).

     Lễ vượt qua vào ngày 14 tháng thứ nhất của lịch Do Thái -mùa xuân ở Bắc bán cầu-  là một trong bảy lễ hàng năm nói trong sách Levi đoạn 23. Chúa Giêsu và Giáo Hội sơ khai đã mừng tất cả những lễ này. Qua lịch sử giáo hội ít người thấy có sự mâu thuẫn lớn giữa những người mừng lễ vươt qua theo Tân Ước và những người sau này giữ lễ được biết là lễ Chúa Nhật Phục Sinh, một ngày lễ nghỉ khác do con người lập ra -một lễ vượt qua với nhãn hiệu sai lầm để rồi ngày nay lại có nhiều tên ở những dạng ngôn ngữ khác nhau. Cuộc tranh cãi này có từ thế kỷ 2 và tiếp tục cho đến ngày nay.

     Vào khoảng năm 190 A.D. đã có một thư đặc biệt nói về việc tranh cãi này. Thư của Polycrates là giám mục ở Ephesus viết cho Giám mục Roma là Victor nói về lễ Vượt Qua của người Kito hữu.

     Polycrates đã xác định: “Chúng tôi mửng một ngày lễ, không thêm vào mà cũng không bỏ đi. Vì ở Châu Á -địa phận của Ephesus ở miền Tây Thổ Nhĩ Kỳ- những ánh sáng vĩ đạ đã ngủ, sẽ sống lại vào ngày Chúa đến, khi ngài đến trong vinh quang từ thiên đàng và sẽ tìm kiếm tất cả các thánh.

     “Trong số này có thánh Philiphe là một trong 12 môn đệ đã nằm ngủ ở Hierapolis... và ngoài ra còn có Gioan, cả hai đều là nhân chứng và là thầy dạy đã ngả lưng bên cạnh Chúa, và... ngủ tại Ephesus. Và Polycarp ở Smyrna lúc đó là giám mục và thánh tử đạo... Tất cả họ đã ăn mừng ngày thứ 14 của lễ Vượt Qua theo như Tân Ước, không làm mất đi sự kính trọng mà là theo đúng luật về niềm tin” (Ecclesiastical History, Book 5, chap. 24, c.2-6).

     Thảm họa thay, lúc bấy giờ lễ Chúa Nhật Phục Sinh do con người là Victor ở Roma tạo ra đã được áp dụng trên hầu hết đế quốc La Mã, và sau này một lễ khác cũng do con người tạo ra bởi giáo hội La Mã và đặt tên là lễ Giáng Sinh-Chrismas.

     Chadwick sẵn sàng chấp nhận việc chuyển từ Lễ Vượt Qua sang lễ Phục Sinh: “Việc có ý chuyển đổi đó của Victor đã thành công có nghĩa là quan điểm của ông cuối cùng là thi hành... Nhưng có chút ít hồ nghi là nhóm 14 Nisan (quartodecimans) gồm một số Kito hữu người Do Thái vào thời Giáo Hội sơ khai vẫn giữ tục lệ của Do Thái giáo mừng lễ Phục Sinh vào ngày 14 Nisan cho dù có rơi vào ngày Chúa Nhật hay không. Việc này dẫn đến việc tranh cãi về ngày Lễ Phục Sinh và rồi bị công đồng Ni-Xê (Nicean council) bác bỏ. Đơn giàn là họ đã bị coi là lạc giáo vì quá lỗi thời” (p.85).

     Vậy thì những ai mừng lễ Vượt Qua vào ngày 14 là những người hiện vẫn giữ những điều mà Chúa Giêsu đã truyền dạy được dán nhãn hiệu là “lạc giáo” vì họ không đi theo lễ hội do con người tạo ra! Những tín hữu Kito Giáo này họp thành một đoàn nhỏ đã bị hành quyết (Lc 12:32). Đơn giản là họ không nhượng bộ các đe dọa đến từ giáo hội La Mã. Polycarpe trả lời Victor của Rome như sau: “Tôi... không sợ những lời đe dọa. Nhưng đối với những ai cao trọng hơn thì tôi phải nói là ‘Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là loài người’ (Cv 5:29)”

     Đây là câu trả lời đi thẳng trực tiếp vào vấn đề này của ngày nay.

Chúa Kito dạy phải thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật và đúng đường lối

     Chúa Giêsu đã nói trước những người theo Chúa sau này phải thờ phượng Chúa Cha theo hai nguyên tắc chính -dùng Thần Linh Thiên Chúa và sự thật Kinh Thánh. Ngài nói: “Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phựng Chúa như thế. Thiên Chúa là thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4:23-24).

     Thực vậy, Chúa Kito đã phán những Kito hữu thực sự nhận Thần Linh Thiên Chúa thì sẽ được dẫn đưa tới sự thật mà Ngài đã dạy. Ngài nói, nhưng đấng Bảo Trợ sẽ dạy anh em tất cả mọi điều và khiến anh em nhớ lại tất cả những gì mà Thầy đã nói với anh em. Đấng giúp đỡ này là Thánh Linh mà Thiên Chúa Cha sẽ gửi đến nhân danh Thầy” (Ga 14:26).

     Ngoài ra, chúng ta thờ lạy Thiên Chúa không chỉ qua Thần Linh của ngài ở trong chúng ta mà còn phải vâng theo những sự thật cùa Ngài đã ghi trong Kinh Thánh -không phải những sự thật do con người tạo ra, như Thánh Vịnh đã công bố, “Tất cả mọi giới răn của Ta là sự thật” (Tv 119:151).   

     Nên nhớ rằng nhiều ngày lễ do con người tạo ra chỉ là những thay thế bởi dân ngoại cho những ngày lễ đã thấy có trong Kinh Thánh. Những ngày lễ giả tạo này đã che lấp mất những sự thật vinh quang huy hoàng và ý nghĩa của những ngày lễ của Thiên Chúa.

     Ai là tác giả cuối cùng của những giảng huấn gian dối lừa đảo này? Đó là quỉ Satan, chuyên viên lừa dối. Thánh Phaolo đã cắt nghĩa: “Ngay cả nếu Tin Mừng Phúc Âm chúng tôi giảng có bị che khuất, thì chỉ bị che khuất đối với những người hư mất và những kẻ không tin. Họ không tin vì tên ác thần của đời này đã làm cho tâm trí họ ra mù quáng, khiến họ không thấy bừng sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của Đức Kito là hình ảnh của Thiên Chúa” (2Cr 4:3-4). 

     Tóm lại, phải chăng Chúa Giêsu Kito đang thỏa hiệp hay dàn xếp với luật Thiên Chúa qua việc tham dự hay ủng hộ những ngày lễ do con người tạo ra phát khởi từ việc thờ phượng tế tự của dân ngoại? Câu trả lời vẫn còn đang âm vang trong Kinh Thánh tiếng không!   


Fleming Island, Florida
Dec. 5, 2024
Nguyên Tiến Cảnh


La Poupée(G. Lenotre) - Em Búp Bê Giáng Sinh (Thái Lan)


Theo trí nhớ của tôi về quá khứ xa xôi, tôi vẫn nhìn thấy bà hầu tước De Flavigny, luôn tươi cười và thanh thản, bà thường ngồi ở chiếc ghế bành thấp bọc nhung màu vàng nhạt, đầu đội chiếc nón len viền ren, có vài lọn tóc bạch kim lòa xòa trên mặt. Bên cạnh bà luôn có một phụ nữ khác cùng lứa tuổi, ngồi ở chiếc ghế thấp, cũng tươi cười hiền hậu: bà ấy thường được gọi là “Cô Odile”.

Bà ấy không phải là cô hầu, mà hình như có một mối dây thân mật khiến hai bà là đôi bạn thân; họ thường ngồi đan những chiếc váy lót bằng len để rồi mỗi thứ năm đem tặng cho người nghèo cùng với một mẫu bánh mì và năm đồng tiền hai xeng ( liard= 1/4 xu của Pháp thời đó), vừa kể cho nhau những dòng tâm sự không bao giờ cạn. Vào những ngày không đan đác thì họ lại lục soạn bao nhiêu là tủ kệ, mở những hộp xinh đẹp quấn đầy cả dãi ruy băng, rồi bày ra nào là những khăn lót dĩa, lót bình hoa thêu thùa rất công phu, rồi chùi dọn suốt ngày. Bọn chúng tôi là một đám trẻ con tò mò được phép chứng kiến những hoài niệm về kho tàng cổ xưa rất hữu ích ấy, với điều kiện không được đụng đến bất cứ thứ gì.
Bên trong một cái tủ bí mật ấy, như là ngôi đền nhỏ, chúng tôi thấy một vật để đứng trong một hộp thủy tinh mà hai phụ nữ ấy chăm chút như một vật linh thiêng: đó là con búp bê lớn, mặc một chiếc áo đầm bằng lụa đã sờn theo kiểu xưa; đầu nó thì đã rụng gần hết tóc qua thời gian, mũi thì bị gãy, gương mặt và tay thì đã bị tróc hết lớp sơn bọc ngoài, và chân thì chỉ còn một chiếc giày gót cao đã bị nứt nẻ, màu đỏ phai nhòa, với khóa cài bạc đã thành đen điu .

Khi nhìn thấy món đồ vật trang trí uy nghi ấy, bà hầu tước và cô Odile bế nó ra với sự dè dặt của đứa trẻ lễ sinh ở nhà thờ khi phải cầm vật thánh trong hòm thánh tích: họ nói từng câu ngắn với vẻ ké né: “Ôi, CÔ BÉ lại bị rụng tóc nữa rồi…Cái váy lót lại mòn thêm nữa…Ôi ngón tay này lại sắp rơi xuống nữa nè.” Họ cẩn thận chăm chút mở nắp hộp ra, vỗ bụi trên tóc, vuốt nếp gấp chiếc váy bằng đầu ngón tay, nhẹ nhàng, âu yếm.

Rồi họ để em bê trên ngăn kệ đẹp nhất, như trên một kệ thờ.
– “Bé có đứng được không, cô bạn yêu dấu của tôi?”, bà hầu tước hỏi bạn mình.
Còn bà Odile thì chỉ gọi bà là “Bà Solange”, một cách thân mật, không kèm chức tước.
Chúng tôi không biết gì thêm về hai phụ nữ ấy và con búp bê, cho đến một đêm trước Giáng Sinh, vào một năm xa xưa lắm rồi, bỗng dưng chúng tôi được tham dự, được “kết nạp” vào toàn bộ bí mật đó. Hôm ấy Odile và bà bá tước đã nói chuyện với nhau một cách sôi nổi hơn thường ngày.

Đến chiều tối, cả hai trở nên trầm lặng, gần như tĩnh tâm, rồi im lặng chắp hai tay lại, ngậm ngùi nhìn nhau, và ta hiểu rằng họ đang hướng về một kỷ niệm thật yêu dấu của riêng họ. Khi bên ngoài trời tối hẳn, Odile thắp nến lên; rồi lấy xâu chìa khóa từ bên trong cái tạp dề, bà mở cửa tủ đựng em búp bê. Bà bưng con bê ra khỏi hộp; trong mớ áo quần trang hoàng kiêu sa thuở nào, giờ đây với cái đầu nhẵn tóc, nó có vẻ già hơn hai người phụ nữ rất nhiều, và họ đang chuyền tay nhau vật báu bằng những cử chỉ thật chăm chút, gần như là âu yếm, như thể đối với con gái yêu.

Nữ hầu tước để con bê lên chân mình, nhẹ nhàng kéo đôi tay bằng thạch cao đến gần thân nó, toàn bộ khớp kêu ken két như tiếng rên rỉ, rồi bà nhìn ngắm ” cô nàng” với một nụ cười thật trìu mến -” Cô bạn yêu dấu của tôi, bà gọi mà như thể nói với con bê, bây giờ ta kể chuyện của mình cho bọn trẻ nghe nhé?” Rồi Odile gật đầu đồng ý; nữ hầu tước ra dấu cho chúng tôi đến đứng quanh bà; con bê vẫn ngồi trên đùi bà, và làm như bà sẽ thuật lại câu chuyện cho mỗi con bê nghe thôi.

Bà kể rằng từ rất nhiều năm trước, khi bà con là đứa trẻ, cuộc nội chiến tàn phá xứ Bretagne của bà, đó là thời gian kinh hoàng. Từ những ngày đầu năm 1792, cha mẹ của bé Solange đã di cư, và giao bé cho một bà nông dân sống bên cạnh lâu đài của họ ở Ploubalay trông chừng, vì tính cách nguy hiểm của cuộc trốn chạy nên không thể mang bé đi cùng; họ nghĩ rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc thôi, và họ sẽ trở về trong thời gian ngắn. Nhưng rồi không lâu sau đó, biên giới đã bị đóng cửa, và luật lệ gắt gao ngăn cấm những kẻ di cư trở về lại nước Pháp. Cô bé Solange phải ở với gia đình người hàng xóm tốt bụng, không nhận được tin tức gì của cha mẹ mình, vì hình phạt sẽ là án tử hình nếu ai có ý muốn liên lạc với những người di cư.

Ploubalay là một ngôi làng rộng lớn, cách Saint-Malo khoảng ba dặm; bờ biển gần đó có đầy cả những tảng đá lớn, bao quanh là quần đảo đá ngầm, nên mọi mưu toan cập bến đều rất nguy hiểm. Bọn lính mới chiếm cứ toàn bộ thị trấn, họ đã đuổi bọn lính phe bảo hoàng đi; tên trung sĩ cầm đầu bọn họ là một người có tính tình như bao nhiêu người trong quân cách mạng: thô lỗ, sắt đá.

Hắn người vùng Alsace, tên là Metzger. Mọi người đều sợ hãi hắn ta, nhất là đối với bé Solange, khi nhìn bộ ria mép, đôi lông mày rậm, ánh mắt nghi ngờ, giọng nói cứng ngắc, vang to, của người đàn ông kinh khiếp đó, là cả một cơn ác mộng cho bé.

Khi tên trung sĩ không làm việc với toán lính của hắn, thì hắn ngồi ở cửa nhà thờ, để canh chừng những con đường của thị trấn với vẻ mặt thật dữ tợn. Một hôm bé Solange đi mua bánh mì cho bà Roualt, lúc về thì thấy ông ấy đang nhìn theo mình. Bé muốn đi vòng ra sau, nhưng lại không dám. Lấy hết can đảm, bé liền đi thật nhanh như thể ở nhà đang có người đợi mình. Đến lúc tưởng rằng đã thoát đôi mắt cú vọ của hắn, bỗng bé nghe thấy giọng nói ồm ồm của tên lính:
– Này cô bé kia, đứng lại!
Cô bé tội nghiệp cảm thấy như tim mình ngừng đập: bé không bước được nữa, chắc là chết giấc mất thôi…
– Đến đây xem nào…- xích tới chút nữa..

Bé phải nghe theo, không còn kiểm soát mình được nữa, bé chỉ cách tên trung sĩ hai bước chân, mà cũng chưa dám ngẩng mặt lên nhìn. Hắn để bé đứng như vậy một lúc, rồi bỗng bằng một giọng vang to như sấm làm con bé rùng mình: – Mi thuộc dòng quý tộc phải không? Cô bé há hốc miệng, phú dâng cho Thượng Đế. Bé không hiểu lắm, nhưng biết rằng chữ đó là dành cho những người sẽ bị giết.

– Mi bao nhiêu tuổi hả?. Bằng một giọng khàn đi vì kinh khiếp, bé trả lời: – Tám tuổi, bé định nói thêm cho lịch sự , “thưa ông”, nhưng rồi không thốt ra, vì biết rằng nếu nói ra thì tên ấy sẽ bóp cổ bé ngay tức khắc. Nhưng hắn không có vẻ gì là để ý đến điều đó, lại làu bàu:
– Hừ, tám tuổi…tám tuổi! Rồi nói thầm: – Mi cao lớn và mạnh khỏe đấy, so với tuổi của mi.
Cô bé nhìn ông ta, hắn thật là kinh khủng, với vẻ mặt dữ dằn, đầu đội cái nón hai sừng có vài sợi lông chim đỏ, gương mặt rám nắng, ống điếu thì đen thui, túi đạn đeo chéo trước ngực, kiếm dài ngoằng và đôi ủng đầy cả bùn sình. Và điều ghê gớm nhất là đôi mắt hắn, sâu hoắm, sắc sảo như chực ăn tươi nuốt sống cô bé.
-Thôi, chuồng đi! hắn ra lệnh. Cô bé liền nhanh chân chạy một mạch về nhà, vừa chạy mà tim vẫn còn đập thình thịch.
Kể từ hôm đó, cô bé có cảm tưởng như tên trung sĩ luôn theo dõi mình. Khi hắn có việc đi ngang trước nhà gia đình Rouault, là phải cố nhìn vào bên trong để tìm bé. Hoặc khi gặp bé ngoài đường, hắn gọi bé bằng cái giọng quỷ quái, thô lỗ, làm cho con bé run lẩy bẩy: – Ah! cô bé kia!

Solange ước sao không phải đi ra ngoài nữa, nhưng bà Rouault, tiên đoán rằng cha mẹ của bé sẽ không có cơ may trở về nữa, và bà không thể để bé ăn không ngồi rồi, nên thường sai đi mua những thứ cần thiết cho gia đình.
Thế là, bị ép buộc để hàng ngày phải diện kiến với con bù nhìn ghê sợ của mình, Solange đành phải chịu đựng sự nghiệt ngã của đời mình; và tên lính mới ấy chỉ còn chờ có được cơ hội. Một hôm khi đang ngồi rửa rau ở máy nước công cộng trong khu nhà, hắn bỗng xuất hiện và hỏi: – Này bé, tên mi là gì? Cô bé biết rằng giờ ấy đã điểm, nên cam chịu trả lời: – Solange… Tên lính reo lên:- Solange! – (hắn đọc là Zaulanche)

-Cái tên mới ngộ làm sao! Rồi hắn nắn cánh tay bé, và bế con bé lên để xem thử nó có nặng không – Tám tuổi ư! Sao mà lớn nhanh thế!
Cô bé có cảm tưởng như mình đang là con mồi ngon trong tay một con yêu tinh…
*** Bây giờ đang là tháng Mười Hai, những tháng ngày u buồn ảm đạm, không có ánh dương; ngày nào bọn lính mới cũng bắt được những người di cư trở về, họ sống quá cơ cực ở Jersey hoặc Luân Đôn, không chịu đựng nổi, nên quá ao ước được trở về Pháp, rất nhiều người đã mạo hiểm cập bến.
Bọn lính phục kích ở bờ biển cũng như toàn bộ khu vực , và đã luyện một đám chó to lớn đi săn loại mồi đặc biệt này, để tìm ra tung tích những kẻ khốn cùng, ban ngày thì nằm rẹp trong lau sậy, ban đêm thì men theo các mương rãnh. Dân làng thường thấy bao nhiêu người đi ngang qua Ploubalay này bị xiềng xích, áo quần thì tả tơi, bọn lính thì đi kèm họ đến Saint Malo, hoặc Rennes, rồi sau một cuộc xét xử sơ sài, bị đem ra bắn. Luật lệ không nương tha và không có kháng án: bất cứ người di dân nào bị bắt là chịu tử hình.

*** Vào đêm vọng Giáng Sinh năm 1793 ấy, trong làng không còn ai nhớ về những buổi lễ thân thương của thuở xa xưa nữa. Nhà thờ thì đóng cửa, chuông thì im vắng; đêm tối đã buông xuống, đầy sương mù; suốt ngày người dân nghe tiếng chó sủa không ngớt về phía khu Bodard: hôm nay bọn lính đã thu hoạch được khá rồi…
Cô bé Solange ngủ ở căn gác kế căn đựng thóc lúa, đầy cả bóng tối ghê rợn, và ban đêm bé nằm bất động, nghĩ đến bao nhiêu điều bất trắc có thể xảy ra. Hôm ấy bé vừa thay áo quần vừa run vì lạnh và bé thật buồn, nhớ đến bao nhiêu đêm Giáng Sinh với cha mẹ mình, thật vui thích, và trong lòng bé thấy thương mến làm sao!

Những buổi sáng thức dậy sao sung sướng hạnh phúc quá! ở cạnh lò sưởi tràn đầy quà cáp gói bằng dãi nơ thật xinh xắn, rồi bao nhiêu là đồ chơi và bánh kẹo!
Vừa mơ mộng như thế, cô bé vừa cầm đôi guốc gỗ một cách uể oải, không muốn để cạnh lò sưởi vì biết rằng rồi đây chúng cũng sẽ trống trơn khi bé thức dậy, y như năm vừa rồi. Ngay cả Đức Chúa nhỏ bé cũng lo sợ và không đến nước Pháp nữa hay sao?
Bé có cảm tưởng như có tiếng động, thế là bé nhanh nhẩu thổi nến và chui vào chăn. Rồi bé ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, bé thấy như cánh của nhè nhẹ mở ra, và một bóng đen lẻn vào căn gác. Bé hé mắt ra nhìn: căn phòng bây giờ đã được ánh trăng chiếu sáng,. Ta có mơ không đây? Bé nhận rõ bóng đen là một người đàn ông: một người đàn ông ăn mặc như những người di cư mà bé thấy ở ngoài quận khi lính đem tù nhân đi Saint Malo; rồi bé nghe thấy một giọng nói thật khẽ: – – Solange, bé con nhỏ cưng của ta, đừng sợ con ạ.
Bé cảm thấy một bàn tay đang dang những lọn tóc trên trán ra một cách cẩn thận: một tia sáng của ánh trăng đang chiếu rõ cô bé.

Người đàn ông nhìn bé: – Ôi con yêu Solange của ta, con xinh đẹp quá, và cao lớn, mạnh khỏe nữa!
Ông ấy không ngớt ngắm nhìn bé. Rồi ông ôm lấy bé một cách cuồng nhiệt, và hôn tới tấp làm bé suýt nghẹt thở. Bé không còn biết mình thức chưa hay còn đang mơ; nhưng bé biết ngay là nếu cha của mình còn sống, thì đây chính là giọng của người, những cái vuốt ve trìu mến, và ôm ấp bé như thế. Bé thấy người đàn ông quỳ bên cạnh giường mình, rồi bé nghe ông khóc nức nở; bé khép mình trong tay cha- rồi quá hạnh phúc! bé nhắm mắt ngủ tiếp.
Bình minh hôm sau, bé mở choàng mắt, và lúc đầu thật khó khăn để nhớ lại những gì vừa xảy ra đêm qua, nhưng rồi bé trấn tĩnh lại: chắc chắn là mình đã nằm mơ rồi: căn phòng trống trơn, cánh cửa thì khép kín; dưới nhà bé nghe rõ bước chân bà Rouault đi qua đi lại. Solange ngồi ở mép giường, và bỗng nhiên, sung sướng hét lên,… Trên đôi guốc của mình, được sắp lại ngay ngắn, bé vừa nhìn thấy một con búp bê dựng đứng, mặc chiếc áo váy thật rực rỡ bằng lụa xanh, một con bê thật cao lớn, uy nghi, tươi cười, ăn mặc như một phu nhân, với những lọn tóc xoắn thật xinh bao lấy khuôn mặt bằng sứ thanh tao, trên vai là khăn choàng kiểu hoàng hậu, chân thì mang giày bằng da cừu, khóa cài giày lại bằng bạc sáng loáng…

Cô bé liền quỳ xuống trước “lệnh bà”, và ngay tức khắc gọi bà là Yvonne. Bé thay áo quần rất nhanh, rồi ôm “con gái” trên tay, bé đi xuống nhà.
Bà Rouault, vừa nhác thấy bé cùng với món đồ chơi tuyệt diệu ấy mà trong trí tưởng tượng của bà cũng chưa bao giờ mơ ước được, vô cùng ngạc nhiên thốt lên:
— Lạy Trời, Solange, ai cho cháu con bê này vậy? – Thưa bà, đó là chúa Hài Đồng Giê Su ạ, cô bé trả lời một cách hồn nhiên.

Người đàn bà há hốc miệng kinh ngạc: ôi, nói về lòng tin theo kiểu thần thánh này thì bà chịu thua thôi. Tuy nhiên, bằng chứng rành rành đây khiến bà choáng ngợp: bà biết rằng ở Ploubalay này, hoặc ngay cả tỉnh thành Matignon, Saint Malo, hoặc Rennes đi nữa cũng không một ai có thể sắm được cho mình hay người thân một món đồ huyền diệu như thế.
Thế rồi, chính vì điều này, bà trở nên rất cung kính, và ngắm nhìn mà không dám đụng vào phu nhân mà Solange trao cho bà một cách long trọng. Bà liền gọi ông đến: – Ông xem thử món quà mà Chúa Hài Đồng mang đến cho Solange nè; ông ấy là một người chất phác,và không biết gì về những trang sức lụa là của các bà mệnh phụ đâu. Nhưng rồi các bà hàng xóm đều ùa đến. Tất cả đều choáng ngợp và chắp tay lại kinh ngạc, rồi xầm xì; vài người nghiêng mình trước một vật thần thánh, vài người không hiểu nổi điều thần bí này.
Còn Solange thì chẳng quan tâm đến nỗi xúc động của họ, bé đang ru Yvonne, và ôm hôn nó một cách thận trọng, môi chỉ dám phớt nhẹ lên lọn tóc vàng óng và đôi má bóng lưỡng của con gái mình; bé đem nó đến cửa sổ để cho nó thấy cảnh bên ngoài.Rồi bà Rouault trở về với thực tế, sai con bé đi mua hàng ở tận góc xa xôi của ngôi làng; con bé hớn hở đem em búp bê theo. Hiện tượng này đã được một nửa quận biết rồi; các bà nông dân đứng ở cửa sổ để nhìn, và bé Solange biết được bây giờ mình trở nên quan trọng thế nào rồi.
Khi bé đến trước nhà thờ, nơi đó tên Metzger vẫn ngồi vắt ngang ghế, lần này thì bé không thèm quay đầu lại để nhìn nữa: hôm nay thì chẳng có mối hiểm nguy nào đến với bé nữa rồi? Niềm vui bất tận trong lòng khiến bé không còn sợ việc gì hay ai nữa, nên khi tên trung sĩ gọi bé lại, và hỏi nó ôm vật gì, thì bé trả lời một cách tự tin: – Đó là một con búp bê – Một con bê thật đẹp! Ở đâu mà nhóc có được vậy? – Thưa ông trung sĩ, chính Chúa Giê Su Hài Đồng đã cho tôi.

Tên lính theo phe cộng hòa liền đứng phắt dậy, lấy chân hất cái ghế ra: – Mi nói cái gì? hắn hét lên – Đó là con bê mà Chúa đã cho cháu nhân dịp Giáng Sinh, ông trung sĩ – Ah, mi nghĩ là ta sẽ tin vào … nhưng trước vẻ ngây thơ của con bé, hắn ngừng nói; nhưng giật lấy con bê từ tay cô bé, hắn nhìn thật kỹ , và nói: – Ôi, một lệnh bà đẹp thật; mà này, nhìn xem, bên dưới giày có ghi nè: Berkint-London- vậy ra con bê này là dân xứ Anh quốc? Vậy thì Chúa Giê Su Hài Đồng là người Anh hả?
– Cháu không biết, thưa ông, cô bé vừa trả lời vừa lấy lại con búp bê; bây giờ niềm vui của cô bé đã bị hỏng rồi
– Để xem nào, hắn làu bàu, rồi quay lại gọi thuộc hạ.
Một tên hạ sĩ chạy ra.
– Hôm qua có người lạ nào xuất hiện trong làng không?
– Dạ tôi nghĩ là không đâu ạ, hôm qua bọn lính canh đã làm việc rất tốt. Thật ra đám chó săn đã hú lên một cách không bình thường, nhưng chúng tôi đã lục soát kỹ rồi, mà không tìm thấy gì cả.
– Được rồi, tập họp mọi người lại đi. Rồi hắn đeo túi đạn vào, cài dây lưng, lấy khẩu súng và dẫn đầu đám lính đến nhà bà Rouault.
Solange, trở nên thật lo âu, đi bên cạnh hắn, nhưng bước nhanh hơn, và ôm ghì bé Yvonne xinh đẹp và tươi cười vào lòng.
Đến nơi, hắn ta để hai tên lính gác trước cửa, rồi chia vài tên ra khắp nơi bên trong và quanh nhà.
Rồi bảo đám còn lại đi theo mình, hắn vô trong phòng, cầm tay bé Solange, ngồi vào ghế, rồi kéo bé đến gần mình, và bằng một giọng rất nhỏ nhẹ, có lẽ để dỗ dành con bé: – Nào, bé con, kể cho ta nghe tất cả mọi việc đi nào.
Thế là bằng một giọng rất nhỏ, buồn bã, cô bé bắt đầu kể về “giấc mơ của bé”, về người đàn ông mà bé nghĩ là đã nhìn thấy trong phòng, về ảo tưởng của những nụ hôn mà ông ấy đã hôn bé, và rồi đến lúc sáng, cô ngạc nhiên xiết bao khi phát hiện ra con bê thật xinh…
Tên trung sĩ theo dõi thật kỳ lời của cô bé, không bỏ sót chi tiết nào. Bỗng dưng, quay lại phía đám lính đang lắng nghe, hẳn ra lệnh:
– Bọn bây, quay trở ra đi, và hãy canh cho thật kỹ mọi ngõ ngách! Nã súng vào đầu bất cứ tên nào có ý trốn chạy!
Bọn họ ra ngoài, khi còn lại một mình Metzger và cô bé:
– Nào, bé con, mi nói là người đàn ông đã hôn mi,… và gọi là “Solange bé nhỏ của ta”, rằng ông ấy đã quỳ bên cạnh giường cô bé và còn khóc nữa? 
Cô bé gật đầu , không muốn nói dối, nhưng cũng cảm nhận được một tai họa sắp xảy đến.
Metzger chưa vội hành động. Hắn đặt đôi tay thô ráp lên vai bé Solange, và nói thật nhỏ, như thế nói cho chính mình:
– Ừ, hắn ta nói một cách nghiêm trang, ta cũng có một bé nhóc con như thế này, ở Alsace (miền Đông nước Pháp, cạnh Đức & Thụy Sĩ), thành phố Gersheim ( Đức)… nó cũng lên tám tuổi…đã tròn hai năm rồi ta cũng chưa gặp lại con bé… và ta nói thế này: Để chỉ nhìn thấy nó thôi, cho dù nó đang ngủ, trong bóng tối, để hôn nó một chút thôi, chỉ để cảm thấy nó thiu thiu ngủ trên vai ta, mớ tóc vàng của bé thì sát vào mặt của ta…thì ta đây cũng dám liều mạng sống của ta như vậy… Hình như người cha nào cũng như thế cả.”
Hắn ra chiều suy nghĩ thật kỹ càng. Rồi hắn trở nên cương quyết, đứng phắt dậy, lại thô bạo, và lắc lắc cái đầu như để xua đuổi một ý nghĩ hèn kém nào đó, rồi quay ra cánh cửa mở: – Hai người đi với ta, chúng ta sẽ lục soát căn nhà nhỏ bé này!
Solange bỗng la lên: – Thưa ngài trung sĩ, gượng đã!
Bé đã nghe tên lính ấy nói và đột nhiên cô bé đã hiểu tất cả: đêm đó, chính ba của bé đã đương đầu với cái chết để được đến vài phút bên cạnh con gái bé cưng, đã rời khỏi nơi ẩn náu, băng qua biển cả, cặp bến vào những tảng đá nguy hiểm, trườn người giữa đám lau sậy dưới họng súng của bọn lính canh, đề về đến làng. Chính ba của bé khi nghĩ rằng bé sẽ không có món đồ chơi nào cho lễ Giáng Sinh cả, nên đã mang “lệnh bà” đến cho nó.
Ba của bé đang ẩn trốn trên căn gác kia, và rồi đây họ sẽ lên bắt ông đi, và bé sẽ nhìn thấy ông bị xiềng xích quấn vào người, và đi với bọn người lính bao quanh…
Thế rồi, cô bé, lòng dạ tan nát, khóc nức nở làm rung cả đôi vai bé nhỏ, và chạy đến bên tên trung sĩ
– Đợi đã! Đợi đã, ông ơi! 
Tên lính bây giờ đã trở lại vẻ hung ác dữ dằn, nói bằng giọng thô lỗ: – Gì nữa đây?, hắn hỏi. 
Solange suy nghĩ như thế này: Để cứu cha của bé, bé sẽ đưa hết tất cả những gì bé sở hữu; nhưng hỡi ôi, bé chỉ có mỗi con bê. Bé liền nảy ra ý định hy sinh thật cao cả – Thưa ngài trung sĩ, ngài có một con gái…cùng tuổi với cháu…mà ngài chưa gặp lại từ hai năm nay phải không? Metzger liền gật đầu ra hiệu đúng như vậy.
-Thế thì! Thế thì!, Solange nói tiếp, đôi mắt ngấn lệ, có thể bởi vì ông không có mặt ở nhà nên chúa Hài Đồng Giê Su đã quên cô bé rồi chăng… 
Vậy ông hãy lấy con búp bê của cháu đây này, cháu tặng ông đó. 
Tên lính liền quay lại phía cô bé; hắn nhìn cô bé với đôi mắt đã ướt đẫm; hắn thở rất mạnh, đôi môi run rẩy dưới bộ ria mép, và ta nhận thấy trên gương mặt hắn những bắp thịt cử động lên xuống, tỏ rõ cảm xúc bị đè nén. Hai người lính bước vào phòng.
– Cháu đừng nói gì hết, không phải lo điều gì, tên trung sĩ nói nhỏ với bé.
Rồi hắn nói với bọn lính :
– Chúng ta sẽ lên trên kia, và lục soát mọi ngõ ngách. Bọn bây giữ súng sẵn sàng và hãy lên đạn, và cố nhìn cho kỹ. Bé con này, đi trước đi. 
Cả ba người lính và cô bé leo lên bậc thang: vừa vào căn gác, hắn đặt một người ở ngưỡng cửa, người kia cạnh cửa sổ; hắn mở cửa căn gác xép, rồi chỉ một mình hắn bước vào đó, đóng cửa lại. 
Trống ngực Solange đập thình thình, muốn vỡ toang ra. Một lúc sau, cửa gác bật mở, và Metzger hiện ra: – Bên trong này không có gì cả.!
– Ta trở xuống thôi. Con chim đã bay mất rồi. Chúng ta đã bị lừa…
Rồi khi xuống bên dưới nhà, lúc chỉ còn một mình hắn và Solange, hắn nói nhỏ vào tai bé:
– Cháu hãy nhớ kỹ điều này: “Người đàn ông ấy” có thể ở lại trên đó hết đêm nay và nguyên cả ngày hôm sau. Cháu nói ông ta hãy yên tâm đi, mọi việc sẽ tốt thôi. Ông ấy sẽ ra đi vào đêm ngày mốt, và đến Lancieux và Saint-Briac, ở đó ông có thể ra khơi lại; vùng đó sẽ không có lính gác, ta sẽ đem lính của ta qua phía bên kia. Cháu hiểu rõ chưa? – Dạ hiểu, thưa ngài trung sĩ – Vậy tốt rồi! Còn con búp bê này của cháu, ta sẽ mang nó đi: ta sẽ gởi về cho bé Odile của ta. Ta phải lấy con bê, bởi vì có thể có một người khác sẽ tò mò giống như ta khi thấy Chúa Hài Đồng Giê Su mang cho bọn nhóc như cháu những món đồ mỹ nghệ xuất xứ từ Anh Quốc đó. Cái em bé này đã gây cho cháu quá nhiều phiền toái rồi.
– Thế nhé! Và nhớ giữ bí mật nhe cháu! Và đừng quên: đi về phía Lancieux và Saint-Briac.
Rồi ông ta đi ra, gọi cả bọn lính đi theo; và rồi, ngay chiều hôm đó, mang họ đi thám hiểm về phía Matignon, cùng với lũ chó săn luôn, trong suốt ba ngày tròn. 

“Và đó là câu chuyện của cả ba chúng ta, nữ bá tước Flavigny nói, đó là chuyện lôi thôi duy nhất trong suốt cuộc đời của cả ba chúng tôi, Odile, Yvonne, và tôi.
Mười lăm năm sau, khi tôi làm đám cưới với bá tước của tôi, chúng tôi đi tham quan vùng Alsace; tôi đã đến Gersheim, và hỏi thăm về trung sĩ Metzger, về con gái Odile của ông ta, vì các con biết đấy, những cái tên đó đã in đậm trong trí nhớ của ta rồi. 
Ta đã tìm thấy người lính già ở nhà máy sản xuất hoa làm rượu bia của ông ta. Ông ấy đã giải ngũ, sau khi được lãnh huân chương ở Austerlitz, do chính Hoàng đế trao tặng.. Ông ấy đã kể cho con gái mình câu chuyện về bé Solange,và Odile đã cất giữ “lệnh bà”; rồi khi ông ấy qua đời, vài năm sau đó, ta đã đưa Odile về đây với ta; cô bé đã mang Yvonne lại cho ta, và kể từ ngày đó, cả ba chúng ta không bao giờ rời nhau nữa.

G. LENOTRE – tháinữlan dịch

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2024

Noel Tây Nguyên - Sáng Tác: Giang Ân - Ca Sĩ Trần Ngọc


Sáng Tác: Giang Ân
Ca Sĩ: Trần Ngọc

Mari Thăm Ê-Li-Sa-Bét

 

Luca1(39-50)

Ê-li-sa-bét ở xứ Guida…

Mari đến thăm…tình nghĩa ruột rà!

Chủ nhà mừng rỡ…Maria thăm viếng!

Con bà trong bụng nhảy múa hát ca!!


Ê-li-sa-bét…luôn miệng ngợi khen!

Đón mừng con Thánh Vĩnh hằng!

Mari được tràn đầy ơn phước…

Muôn đời mây gió tung tăng!!


Lời Tiên tri…đã ứng nghiệm rồi!

Mari…hoa nở thắm vành môi…

Tạ ơn…Ngài xót thương tôi tớ!

Dòng dõi Vua David…thật tuyệt vời!


Tuyệt vời…nguồn sống yêu thương!

Những ai trong cảnh đoạn trường…

Đói khát tâm linh…thèm công chính!

Qua rồi cảnh sống lắm tai ương!


Tô Đình Đài

Huyền Thoại Đêm Giáng Sinh

 

Trời đất rộn ràng tháng mười hai,

Mùa đã vào Đông gió lạnh đầy,

Giáng Sinh sẽ đến cùng năm tháng,

Anh đến cùng em mùa lễ này.

 

Lòng em mở rộng đêm giáo đường,

Đợi chờ anh đến hẹn mùa thương,

Tình em trong trắng hoa huệ trắng,

Tình anh quyến rũ mùi trầm hương.

 

Anh sẽ đọc rất nhiều câu kinh,

Em tưởng như chỉ dành riêng em,

Là vạn lời thơ tình chan chứa,

Trong những lời kinh cầu trang nghiêm.

 

Đêm thơm vì màu sắc Giáng Sinh,

Em thơm vì mùi nước hoa quen,

Trong mùa Đông lạnh anh sẽ ấm,

Khi tay anh cầm lấy tay em.

 

Đêm sáng những ngôi sao Giáng Sinh,

Cùng với thế gian ước điều lành,

Em ước mình là vì sao nhỏ,

Giữa trời cao rộng em gặp anh.

 

Em một vì sao, anh vì sao,

Em và anh hẹn ở kiếp nào,

Hai vì sao lạc xuống trần thế,

Vạn nẻo đời ta lại gặp nhau.

 

Giáo đường ngân vang bài thánh ca,

Chào mừng Chúa hài đồng sinh ra,

Đêm nay chúa ban cho ân sủng,

Anh cho em cuộc tình thiết tha.

 

Cùng với niềm vui của thế gian,  

Anh và em khấn cầu nhân duyên,

Đêm Giáng Sinh đẹp như huyền thoại,

Tình yêu này huyền thoại trăm năm.

 

Nguyễn Thị Thanh Dương

( Giáng Sinh 2015)

Xóm Đạo Ngoại Ô


Chúng ta khi sống trên xứ người, đều mang theo một chút quê hương theo mình. Có thể là một con đường, một góc phố, hay một xóm nhỏ yêu thương đã gắn bó một quãng đời dài. Tôi cũng có một quê hương trong trái tim mà mỗi khi nhớ đến vẫn làm tôi thổn thức, rạo rực khôn nguôi.

Đó là một xóm nhỏ vùng ngoại ô, cách trung tâm Sài Gòn khoảng gần 10 cây số. Nhớ hồi ra Sài Gòn học, khi các bạn bè hỏi đến nhà chơi, tôi trả lời ở Hạnh Thông Tây quận Gò Vấp, nhiều người còn ngơ ngác không biết nó ở đâu. Tôi phải vẽ trên giấy chỉ đường cẩn thận, nếu bạn đi từ hướng Ngã Tư Phú Nhuận xuống, đường Hai Bà Trưng kéo dài là đường Võ Di Nguy, sau đổi thành Nguyễn Kiệm, đến khu vực Ngã Năm Chuồng Chó, cứ tiếp tục đến Ngã Ba An Nhơn thì rẽ trái khoảng 500m, hỏi Giáo Xứ Đức Tin, nhà của tôi nằm phía sau nhà thờ đấy. Nhà tôi không ở trung tâm phố thị phồn hoa, xóm tôi không cao sang lộng lẫy, nhưng tôi yêu thương xóm đạo của tôi quá đỗi, vì đó là nơi tôi được sinh ra, lớn lên và cho tôi một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc.

Có thể nói, ngôi nhà thờ nhỏ, đơn sơ, bên cạnh cái chợ bé xíu là trung tâm điểm của xóm tôi, được bao bọc chung quanh bởi những dãy nhà cách nhau bằng những con hẻm, kéo dài và ăn thông với nhau dẫn ra đường cái đến thẳng chợ Thông Tây Hội (cũ) và xa hơn nữa là Xóm Mới. Thuở lên 9 lên 10, niềm vui của tôi là cùng lũ bạn nhỏ tụ tập chơi quanh xóm và sân nhà thờ. Tuy nhà thờ không lớn nhưng cũng có một khoảng sân tráng xi măng và hàng rào sắt bao bọc, đủ cho thế giới tuổi thơ chúng tôi. Góc bên trái của sân nhà thờ có trồng một cây hoa sứ, bên cạnh cái tháp chuông. Những buổi trưa nắng, cây hoa sứ và cái tháp chuông làm thành một bóng mát, lũ trẻ con nhặt hoa sứ chơi bán hàng, đám con gái chúng tôi chơi banh đũa, nhảy dây, trong khi mấy đứa con trai chơi trò tạt lon ồn ào, náo nhiệt.
Vui nhất là 3 tháng hè, khi cây hoa phượng ở đầu xóm nở hoa đỏ rực, chúng tôi được nghỉ học, và những cuộc chơi trẻ thơ dường như dài bất tận. Buổi trưa hè nóng nực và im vắng, tôi thường trốn giấc ngủ trưa để nhập bọn cùng lũ bạn đã đợi sẵn ở sân nhà thờ. Những trò chơi làm chúng tôi say mê quên cả thời gian. Hết trò này đến trò kia nhưng không bao giờ mệt mỏi. Đến khi chán chường với những trò chơi ấy, chúng tôi lại rủ nhau đến chơi nhà xứ. Nhà của Cha nằm trong dãy nhà ngoài đường cái và là ngôi nhà đẹp nhất xóm. Nhà lầu đúc hai tầng, có ban công lót gạch đá hoa mát rượi nhìn ra khoảng sân rộng rãi, phía trước có hàng rào sắt bao quanh cao hơn đầu người lớn. Trong khuôn viên ấy, có một căn nhà nhỏ, là nhà bếp và nơi ở của ông cụ Hanh, người chăm lo việc giặt giũ cơm nước cho Cha. Con đường từ cổng vào nhà được tráng xi măng, và tất cả phần còn lại là mảnh vườn có đầy đủ các loại hoa kiểng. Ngay góc sân là cây mận cổ thụ cao to, cành lá xum xuê, vươn ra đến ban công trên tầng lầu. Sát bên hàng rào sắt là những bụi hoa mai, mỗi mùa Tết đến trổ bông vàng rực khiến ai đi qua cũng phải dừng lại trầm trồ.

Cổng sắt của nhà xứ luôn luôn để ngỏ, chúng tôi lại bày trò chơi trên nền xi măng, vì dọc lối đi có những hòn đá tảng rất to có thể làm chỗ ngồi nghỉ ngơi. Gió hiu hiu thổi, đưa những bông hoa mận rụng trắng xóa một góc vườn. Chúng tôi gom những bông hoa trắng tơi như bông để chơi bán hàng, hoặc rải lên mái tóc để làm điệu như người lớn, rồi đi khắp vườn tìm những trái mận rơi rụng, khi ăn vào ngọt lịm đến tận ruột gan. Cũng có khi Cha xứ sai ông cụ Hanh ra vườn với cái cây dài để hái mận cho lũ chúng tôi. Cả đám reo hò ầm ĩ khi thấy rổ mận đầy ắp, ông cụ Hanh dẫn chúng tôi vào nhà bếp rửa mận, và còn hào phóng làm thêm một chén muối ớt đỏ tươi ngon lành, chưa ăn đã kịp chảy nước miếng.
Rất nhiều lần, Cha xứ cho chúng tôi vào căn nhà lót gạch đá hoa mát rượi của Cha. Chúng tôi ùa vào và len lỏi khắp nơi để khám phá thỏa chí tò mò trẻ thơ. Căn phòng khách rộng rãi có bộ bàn ghế sa lông và chiếc đàn piano lớn đặt ngay cửa sổ nhìn ra khu vườn. Cha đã dạy tôi những nốt nhạc đầu tiên trong đời trên chiếc piano này. Khi đánh được một câu nhạc, tôi đu người trên song sắt cửa sổ và hét to lên vì sung sướng. Ở trên lầu, còn có một phòng lớn để các nhạc cụ như một bộ trống, đàn guitar, và một cây đàn piano khác nữa. Đặc biệt có một thư viện nhỏ hẹp, bên trong là 2 kệ sách sát tường cao ngất ngưỡng, tôi phải kiễng chân ngửa đầu nhìn cho đến khi mỏi cổ mới thôi.

Cha xứ yêu thương chúng tôi đến như vậy, nhưng Ngài vẫn không thoát khỏi những trò chơi nghịch ngợm của lũ chúng tôi. Đó là những buổi trưa chúng tôi đến sân nhà xứ hơi sớm, khi nhìn thấy cửa nhà Cha vẫn đóng, đó là dấu hiệu Ngài đang ngủ trưa hay đang đọc kinh. Chẳng có chuyện gì làm, chúng tôi bèn nghĩ ra cái trò... bấm chuông. Một đứa leo lên vai đứa kia để với tới cái chuông và... bấm! Nghe tiếng dép lịch xịch ra mở cửa là cả đám co giò chạy hết tốc lực ra ngoài cổng. Trò chơi này cho cảm giác mạnh, tim đập nhanh và hồi hộp vô tả. Không phải Cha xứ không biết tác giả là lũ chúng tôi, nhưng Ngài chưa hề la rầy nửa lời. Có người phàn nàn với Cha, Ngài cười tươi rói: “Cứ cho chúng nó phá nhà xứ, còn hơn là để chúng đi phá làng phá xóm!” Ôi, câu nói ấy vẫn ám ảnh theo tôi cho đến bây giờ. Cha ơi, nếu ngày ấy Cha cấm đoán hay trừng phạt chúng con, thì con đã mất đi một thiên đường tuổi thơ đẹp tuyệt vời!

Ngọc Lan xinh đẹp, dịu dàng
Buồn vương đôi mắt, nồng nàn lời ca
Mong manh như một kiếp hoa
Luyến lưu hương sắc thiết tha dâng đời.

Ngọc Lan (áo dài sậm màu) tại ca đoàn giáo xứ Đức Tin, Hạnh Thông Tây Gò Vấp thuở ấy. Người phía cuối đeo mắt kiếng là anh Quang.

Những buổi tối mùa hè cũng là những cuộc chơi không dứt. Trời oi bức hiếm hoi những ngọn gió mát, cả xóm kéo nhau ra chơi ngoài cửa. Chúng tôi lại rủ đến nhà xứ hay sân nhà thờ. Những khi có trăng, những ngõ hẻm trong xóm trở nên đẹp lung linh, thơ mộng, nhất là những ngày bị cúp điện. Nhà xứ là nơi có những buổi hội họp của các hội đoàn giáo xứ, và ca đoàn cũng tập hát nơi đây, nên chúng tôi thích ghé chơi vì không khí rất vui. (Ai đã từng yêu mến tiếng hát Ngọc Lan, cô ca sỹ có giọng hát nhẹ như khói sương, dáng người mỏng manh và cuộc đời vắn số, cô ấy chính là một giọng ca chính của Ca Đoàn xứ Đức Tin thuở ấy, mà chúng tôi thường hay chen lấn ở cửa sổ nhà xứ chỉ để ngắm nhìn sắc đẹp của chị Lan. Chị có một mối tình rất đẹp với anh ca trưởng tên Quang, là sinh viên Y khoa, với cặp kính cận và cây đàn guitar. Hai người sau đó đi vượt biên, khi ra hải ngoại thì chia tay và Ngọc Lan trở thành ca sỹ nổi tiếng của Trung Tâm Asia. Tôi sẽ trở lại đề tài này vào một dịp khác, kẻo sẽ bị lạc đề, không chừng còn mang tiếng “nhiều chiệng” thì oan cho tôi lắm!) Sau khi họp hành, Cha xứ thường mở rộng cửa cho chúng tôi vào xem ti vi, nhưng cũng chẳng níu kéo chúng tôi lâu hơn, cả đám lại kéo nhau đi tìm thú vui khác tại sân nhà thờ. Thế là một khung cảnh náo động lại bắt đầu. Chơi bịt mắt bắt dê, chơi trò trốn tìm, mệt thì ngồi xuống dưới bóng tối tháp chuông kể chuyện... ma, và khi có thêm trẻ nhập bọn thì chúng tôi chơi trò chơi tập thể. Hai đứa lớn làm quản trò, giơ hai tay thành cái cổng, đám còn lại xếp hàng nối đuôi nhau đi qua cổng và hát to:

Thiên đàng địa ngục hai bên
Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn
Trên trời có Chúa có Cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi gần chết được lên thiên đàng …”

Đến lúc đó hai người làm cổng mới hỏi từng đứa: “Ăn cam hay ăn quít?” cứ thế tiếp tục đi qua cổng và hát, đám ăn cam ngồi một bên, đám ăn quýt ngồi một bên (trước đó hai người quản trò đã bàn với nhau ăn cái nào là thiên đàng, ăn cái nào là hỏa ngục), cuối cùng tuyên bố ra, những đứa bên hỏa ngục phải còng lưng ra cõng mấy đứa bên thiên đàng xung quanh sân. Có thế thôi mà vui thật là vui, đến khi ba má đến réo gọi mới chịu chạy về nhà đi ngủ.

Thế rồi thời gian trôi đi, chúng tôi lớn lên thành những chàng trai thiếu nữ. Chúng tôi không còn tụ tập chơi ở sân nhà thờ hay nhà xứ nữa, chỉ thỉnh thoảng khi trường làm bích báo, tôi lại chạy đến phòng thư viện nhỏ của Cha để mượn những cuốn sách Tuổi Hoa được xuất bản trước năm 1975 mà Cha còn giữ lại, hoặc khi lớp của tôi mở tiệc Giáng Sinh tại nhà tôi thì tôi và mấy đứa bạn kéo nhau đến nhà xứ để mượn thêm bàn ghế. Tuy nhiên, tôi vẫn giữ thói quen mừng tuổi Cha vào dịp Tết. Cứ vào sáng mồng 1 Tết, sau bữa ăn trưa, tôi và hai nhỏ bạn thân trong xóm cùng đi chúc Tết Cha. (Lạ kỳ thật đấy, gần 20 đứa trẻ của ngày xưa mà bây giờ chỉ còn 3 đứa đến thăm Cha xứ thôi ư? Mà thôi, ngay chính Chúa Giesu xưa kia chữa bệnh phong hủi cho 10 người, cũng chỉ có 1 người quay lại cám ơn Ngài đó sao? Mà đó lại là 1 người dân ngoại, huống hồ là lũ trẻ vô tâm vô tánh như chúng tôi, chắc Cha Sở cũng không lấy gì làm phiền hà). Ngài cũng đã già hơn, yếu hơn xưa, và ánh mắt nhìn chúng tôi mừng vui xen lẫn với một chút buồn ngậm ngùi, vì chúng tôi đã đủ lông đủ cánh bay vào cuộc đời mênh mông.
Quả là như thế, tôi đã bận rộn triền miên với sách vở, học hành và những mùa thi nối tiếp nhau. Có chút rảnh rang thì cùng bạn bè vào những quán đèn màu thưởng thức cocktail, nhâm nhi ly café đá, tập tành nghe nhạc xập xình những bài hát thời thượng của Boney M, Abba, the Carpenters, hoặc thả hồn vào những bài hát tiền chiến ủy mị, nào Hương Xưa, nào Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay, nào Thu Quyến Rũ, hoặc đạp xe ra Sài Gòn dưới những con đường có lá me bay. Rồi có bạn trai, bận làm Thơ tình, yêu thương và hờn giận, xen kẽ với những căng thẳng lo âu của những mùa thi trên giảng đường, xôn xao những ngày phượng nở và chia tay, nên những trò chơi đơn sơ và rẻ tiền của thời thơ ấu đã thực sự chìm vào lãng quên, trở thành một kỷ niệm xa xăm.
 
Tháng 12 năm 1989, tôi và 40 người khác được gửi đến trú ngụ ở một căn nhà giữa cánh đồng ở miền quê tỉnh Kompomsom, Cambodia chờ ngày lên tàu vượt biển. Buổi sáng tôi thường dậy rất sớm, bước ra ngoài tập thể dục và hít khí trời trong lành. Bàn chân tôi dẫm lên những đám cỏ còn ướt đẫm hơi sương, và phía xa tận chân trời còn mờ tối là mặt trời đang mọc sớm hay ánh trăng tàn đang lặn muộn? Xa xa, làng mạc vẫn còn chìm trong giấc ngủ say dưới màn sương mờ đục, đẹp như một bức tranh. Những cây thốt nốt vươn mình trong bầu trời sớm, dáng cong rũ mềm mại như những cây dừa quê hương, tôi bỗng thấy nhớ nhà đến xót xa.
Giờ này chắc cái chợ nhỏ đã bắt đầu dọn hàng, nào bún riêu, bánh cuốn, xôi vò, bánh cam, chuẩn bị cho những hàng quà buổi sáng. Hai quán café ở đầu xóm cũng đã mở cửa đón khách đi làm sớm. Tôi như nghe thấy tiếng chuông nhà thờ buổi sớm vừa vang lên rộn ràng, thúc giục. Tôi ước sao có đôi cánh để bay về với xóm nhỏ của tôi, dù chỉ là vài phút thôi, để kịp nhìn thấy trong những ngõ hẻm còn mờ tối là bóng dáng các cụ ông cụ bà rảo bước đến nhà thờ, có bà vừa đi vừa cài vội mấy nút áo dài, trước sân nhà thờ ông trùm Cương vừa mở cổng vừa tươi cười hỏi thăm những người đi lễ sớm.
Và phía sau ngôi nhà thờ, là căn nhà thân yêu của tôi, với giàn hoa bông giấy đỏ tươi trước cổng. Tôi nhớ từng người thân ruột thịt của mình, tôi nhớ cả những đồ vật vô tri vô giác nhưng đã từng gắn bó với tôi như hơi thở. Nhớ căn phòng ngủ của tôi, có một ô cửa sổ bé xíu nhìn ra khu vườn sau của nhà hàng xóm, thấy cả những cây chuối đong đưa những trưa hè dưới làn gió thoảng. Nhớ cái tủ đứng nơi góc phòng, bên trong là cả “gia tài” vô giá của tôi: những bộ quần áo tôi sắm được bằng chính đồng lương của mình, những cuốn albums, những cuốn lưu bút và nhật ký, đồ trang điểm. Nhớ chiếc bàn viết bên cạnh giường ngủ, nơi tôi vẫn ngồi hàng đêm soạn giáo án và chấm bài học trò, hoặc lãng đãng trên những trang nhật ký khi những hạt mưa đầu mùa rơi lộp độp trên mái tôn vào những đêm khuya lắc khuya lơ…
Rồi tôi khóc nghẹn ngào. Ở cái giây phút sắp sửa bỏ lại quê hương, tôi bỗng thấy yêu mảnh đất xứ sở của mình quá đỗi. Sao tôi lại muốn mình trở lại như trẻ thơ, hồn nhiên vô tư, không chút buồn lo nơi cuộc đời đầy biến động này:

Cho tôi lại ngày nào
Trăng lên bằng ngọn cau
Me tôi ngồi khâu áo
Bên cây đèn dầu hao
Cha tôi ngồi xem báo
Phố xá vắng hiu hiu
Trong đêm mùa khô ráo
Tôi nghe tiếng còi tàu.
(Phạm Duy)


Ngày hôm sau, con tàu định mệnh đã đưa tôi ra khơi, xa mãi quê hương thân yêu, đến trại tị nạn Thailand ở 4 năm ròng rã trước khi định cư tại Canada. Gia đình, người thân tôi cũng lần lượt ra đi sinh sống rải rác ở Mỹ, nên mãi 20 năm sau kể từ buổi sáng năm nào khóc trên xứ Chùa Tháp, tôi mới có dịp trở về thăm xóm nhỏ của tôi.
Thời kinh tế thị trường đã thay da đổi thịt đến tận xóm ngoại ô. Tôi đã lặng lẽ khóc khi đứng trước căn nhà xưa của mình mà nay không còn gì quen thuộc ngoài bảng số nhà 112/4, vì bây giờ đó là nhà hàng cơm bình dân. Nơi giàn bông giấy ngày xưa cho tôi những chiều mưa ủy mị xót thương những cánh hoa mỏng manh run rẩy, nay là quầy để thịt kho, cá chiên, rau xào, đậu hũ. Mảnh sân trước tráng xi măng thuở nào êm ấm những sáng mùa xuân chị em tôi phơi dưa kiệu, làm bánh mứt, nay là chỗ cho thực khách ngồi ăn vội vàng bữa cơm trước khi trở về hãng xưởng làm việc. Những căn nhà lầu mọc lên thay cho những căn nhà đơn sơ thuở nào làm cho những con hẻm bị nhỏ lại. Tôi hỏi bạn: “Vậy ánh trăng có còn tràn xuống hẻm lấp lánh, kỳ ảo vào những ngày rằm?” Câu trả lời là: “Trời ạ! Thời buổi này chẳng ai còn thời giờ để lãng mạn, mộng mơ nữa đâu”.
 
Nhà xứ được xây đẹp hơn, nhưng cây mận với những chùm hoa trắng như bông tuyết của tôi đâu rồi?! (Tôi nghe lòng mình thổn thức). Nhà thờ cũng được phá đi xây lại toàn bộ, cũng trên diện tích ấy người ta xây hai tầng lầu, phía dưới là chỗ để xe, phòng áo, phòng hội họp, còn trên lầu là Cung Thánh cao sang, gác đàn rộng rãi. Phía trước nhà thờ thật bề thế với những bậc cầu thang trải dài xuống tận phía dưới. Cái tháp chuông mới hơn và cao hơn, và không hiểu tại sao cây hoa sứ đã không còn nữa. Tôi hốt hoảng: “Vậy làm sao lũ trẻ nhặt hoa ngửi mùi hương và chơi bán hàng?” Bạn tôi cười buồn: “Mày lo bò trắng răng. Con nít ngày nay chơi game, trò chơi điện tử, chứ đâu thèm chơi những trò chơi quê mùa rẻ tiền như chúng mình ngày xưa”. Tôi vớt vát: “Thế còn những bài đồng dao: Thiên đàng địa ngục hai bên?... Rồng rắn lên mây có cây lúc lắc?...” Bạn tôi lại cười buồn: “Xưa rồi, Diễm!” Buồn nữa là Cha xứ, linh mục Heromino Phạm Ngọc Giá và ông cụ Hanh cũng đã lần lượt qua đời cách đây khá lâu. Bạn bè xưa mỗi đứa tan tác 1 phương trời.Tất cả đều đã đổi thay như cuộc đời dâu bể.
Từ trong đáy lòng, tôi thực sự vui mừng cho người dân xóm tôi vì cuộc sống đã được nâng cao. Tôi mừng vui cho những giáo dân của xóm đạo ngoại ô đã có một ngôi nhà thờ khang trang rộng rãi. Nhưng mãi mãi trong tâm trí tôi vẫn là hình ảnh một xóm nhỏ đơn sơ, có những căn nhà cao thấp xen kẽ nhau, có những ngõ hẻm rộn ràng sáng rực ánh trăng, và một ngôi giáo đường bé nhỏ xinh xinh. Và bao giờ cũng vậy, qua làn nước mắt, tôi thấy lung linh hình bóng của Cha Heromino Phạm Ngọc Giá, với đôi mắt nhân từ sau cặp mắt kiếng và nụ cười nở trên môi, đang mở rộng cánh cửa nhà xứ cho lũ chúng tôi ùa vào trong mùi thơm ngào ngạt của những bông hoa mận rụng trắng ngoài sân. Ngày ấy đâu rồi?!

Kim Loan
(Edmonton, trời lập đông, tháng 12/2023) 

Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2024

Chiều Bên Giáo Đường - Sáng Tác: Lê Trọng Nguyễn - Tiếng Hát: Lệ Thanh(1963)


Sáng Tác: Lê Trọng Nguyễn
Tiếng Hát: Lệ Thanh

Mừng Noel

 

Mẹ ơi! Noel là gì?

Lửa bập bùng sưởi ấm

Bão tuyết rơi ngoài sân

Ánh đèn màu lấp lánh.

 

Mẹ ơi! Noel đép quá!

Ông già râu bạc phơ

Mặt hiền hòa phúc hậu

Mang qùa cho tuổi thơ.

 

Mẹ ơi! Noel thánh thiện

Nhạc thánh ca vang lừng

Lòng rộn ràng háo hức

Tiếng chuông ngân không ngừng.

 

Mẹ ơi! Chúa chào đời

Trong máng cỏ đơn sơ

Ánh hào quang rực rỡ

Soi sáng cả bài thơ.

 

Mẹ ơi! Trời đầy sao

Một ngôi sao Mẹ cài

Trên cây thông xanh biếc

Noel xưa! Nhớ hoài.

 

Tế Luân

Ơn Chúa Giáng Sinh


Máng cỏ hang lừa Đức Mẹ sinh
Ngôi Hai giáng hiện đấng hiền linh
Trên trời Thiên Chúa ban ân điển
Dưới thế con chiên nhận nghĩa tình
Bốn biển cầu mong dừng chiến sự
Năm Châu khẩn nguyện giữ yên bình
Vòng gai chuộc tội vì nhân loại
Thập giá ơn Người bậc Thánh minh


ThanhSong ntkp
Họa

Trong Ngôi Giáo Đường( Văn Bia) - (Thanh Thanh)

 


Hai dãy hàng ghế trong ngôi giáo đường
Chia đôi tín hữu, chia cả người thương
Từ thuở ấu thơ, kinh còn chưa thuộc
Phải tách quỳ mỗi bên ảnh Cứu Chuộc
Chúa rẽ phân mình, em hữu tả anh.

Từ hàng ghế đầu, năm tháng qua nhanh
Ðẩy mình xuống lần ngang hàng ghế giữa
Tóc em đã dài, tình đầu bốc lửa
Anh nhìn ngang hơn nhìn thẳng bàn thờ:
Ngang anh có thiên thần đẹp như mơ
Không sốt sắng vẫn vì em đi lễ
Chúa Nhật nào trông qua bên hàng ghế
Thấy vắng em, anh thấy mất thiên đường.

Rồi Chúa thương tình hai kẻ yêu đương
Cho anh dắt thiên thần lên cung thánh
Nhẫn cưới trao nhau, ghế quỳ bên cạnh
Ước cuộc đời cứ thế mãi song đôi .
Hôn lễ tan, dòng giữa trở về ngồi

Thời gian chưa kịp dần dà xua đuổi
Ðôi ta xuống tận nơi hàng ghế cuối
Anh đã đưa em trở lại trước bàn thờ
Trong nước mắt, trong thần trí đần ngơ
Sao em ẩn trong quan tài lạnh lẽo
Ðể mình anh đứng cô đơn teo héo
Bơ vơ lạc lõng giữa chốn thánh đường

Rồi đây trong tuổi đông giá phong sương
Chịu sao nổi suốt cuộc đời còn lại!
Lúc xem lễ vẫn quen nhìn bên trái
Mắt đã lờ, được thấy em trong mây
Và anh mơ, mơ được sớm đến ngày
Gặp lại em khi rời hàng ghế chót.

Văn  Bia

***
Inside The Cathedral

The two blocks of seats in the cathedral wide
Divided the believers, separated the lovers too.
Since childhood, the prayers not yet known through,
We had to kneel down on each of the Image's side:
The Savior parted us, on the left me, on the right you.

Time passed fast, pushing us from the first line
Gradually down to the middle rows to sit.
Your hair had grown long, my first love strong wine,
I looked sideways rather than straight at the altar fit.
Sideways in my row there was an angel like a dream:
Even not fervent, I went to church for you, my nice.
If on Sunday I glanced in your direction with a beam
But did not see you there, I felt I had lost Paradise.

Then God took compassion on the two infatuated,
Allowing me to lead up to the pulpit my sprite,
Exchange wedding rings, kneel as to be graduated,
And wish for a forever side-by-side happy life bright.
After that, we got back to the middle row in His light.

Time had not been enough after our such treats
To drive both of us down to the last row of seats,
Back in front of the altar I already had to send you,
In hot tears, in dull spirit and dumb mind, so blue!
Why have you hid yourself in that coffin, how cold!
Leaving me lonely, pain unable to withhold,
Standing abandoned, got lost in the holy place.

From now on, having my time-worn age to face,
How could I endure my life's remaining days!
In the cathedral I am still used to glance sideways
To wish through dim eyes to see you in the clouds;
And I dream, dream of being soon rid of all shrouds,
I meet you again on leaving the last row of seats.

Translation by Thanh Thanh