Đỗ Mục 杜牧 (803-853) tự Mục Chi 牧之, hiệu Phàn Xuyên 樊川, người Vạn Niên, quận Kinh Triệu (nay là Trường An, tỉnh Thiểm Tây). Ông nội Đỗ Hựu vừa là một tể tướng giỏi về lý tài, vừa là một sử gia biên soạn sách Thông điển. Anh là Đỗ Sùng, phò mã, làm đến tiết độ sứ, rồi tể tướng. Đỗ Mục có dáng dấp thanh tú, tính thích ca nhạc, ưa phóng túng, còn nhỏ đã nổi tiếng văn tài. Khi mới lên kinh sư, được Thái học bác sĩ Ngô Vũ Lăng đưa thư văn đến cho quan chủ khảo là thị lang Thôi Uyển xem. Thôi rất kinh ngạc về bài A Phòng cung phú. Năm 828, hai mươi sáu tuổi, ông đỗ tiến sĩ, lại đỗ luôn khoa chế sách Hiền lương phương chính, được bổ chức hiệu thư lang ở Sùng văn quán, rồi ra làm đoàn luyện tuần phủ tại Giang Tây, sau đó đến Hoài Nam làm thơ ký cho tiết độ sứ Ngưu Tăng Nhụ, lại đổi về làm giám sát ngự sử tại Lạc Dương. Năm 835, ông đi chơi Hồ Châu, rồi cứ bị đổi làm thứ sử hết nơi này đến nơi khác (Hoàng Châu, Từ Châu, Mục Châu). Năm 849, ông nhờ một người bạn làm tướng quốc xin cho về thái thú Hồ Châu, sau đổi khảo công lang trung tri chế cáo, và cuối cùng làm Trung thư xá nhân. Tác phẩm có Phàn Xuyên thi tập (20 quyển), chú giải Tôn Vũ binh pháp (13 thiên, do Tào Tháo soạn).
Đỗ Mục có lý tưởng khôi phục thịnh thế của nhà Đường nên chú ý nghiên cứu các vấn đề kinh tế, quân sự, viết những bài chính luận bàn về trị loạn, thủ chiến, chú giải cả bộ binh thư Tôn Vũ. Trong sinh hoạt ông phóng túng tự do, không câu nệ tiểu tiết, coi thường lễ giáo. Về văn học, ông có những kiến giải tiến bộ, “lấy ý làm chủ, lấy khí làm phụ, lấy từ ngữ chương cú làm binh vệ” (Đáp Trang Sung thư), làm văn vì sự việc chứ chẳng phải “không ốm mà rên” (vô bệnh thân ngâm). Ông cố gắng đem chủ trương ấy vào trong sáng tác nên có ý nghĩa hiện thực khá mạnh, khả dĩ nối tiếp dư phong Bạch Cư Dị.
Đỗ Mục có nhiều bài thơ ưu thời mẫn thế, nặng lòng lo cho dân cho nước (Cảm hoài, Quận trai độc chước, Hà hoàng, Tảo nhạn...) hoặc bi phẫn khiển trách bon hôn quân bạo chúa (Quá Ly Sơn tác, Quá Hoa Thanh cung...), cũng có bài cảm tác về đời người vì bản thân lận đận, bất đắc chí (Cửu nhật Tề sơn đăng cao, Lạc Dương trường cú...). Một số vần thơ ngắn trữ tình của ông là những bài xuất sắc nhất. Mỗi bài vừa là một bức tranh màu sắc tươi tắn, vừa là một tâm tình nhàn nhã, có khi phảng phất buồn, lãng mạn mà không suy đồi (Sơn hành, Bạc Tần Hoài, Thán hoa, Giang Nam xuân...). Thơ thất tuyệt của ông rất được ưu thích, ngay vịnh sử cũng không khô khan (Xích Bích hoài cổ, Kim Cốc viên, Đề Ô giang đình...). Ông có thể dựng nên những cảnh đẹp trong một khuôn khổ ngắn gọn; ý tình hàm súc được diễn đạt qua những lời lẽ điêu luyện. Ông không trội ở ngôn từ hoa mỹ bóng bẩy, cũng không trội ở chỗ cầu kỳ, quái đản mà bằng ngòi bút nhẹ nhàng vẽ nên những cảnh sắc đẹp đẽ, rung động lòng người một cách rất tự nhiên...
Nguyên tác Dịch âm
旅宿 Lữ Túc
旅館無良伴 Lữ quán vô lương bạn,
凝情自悄然 Ngưng tình tự tiễu nhiên.
寒燈思舊事 Hàn đăng tư cựu sự,
斷雁警愁眠 Đoạn nhạn cảnh sầu miên.
遠夢歸侵曉 Viễn mộng quy xâm hiểu,
家書到隔年 Gia thư đáo cách niên.
滄江好煙月 Thương giang hảo yên nguyệt,
門系釣魚船 Môn hệ điếu ngư thuyền.
Dịch thơ
Trú Ở Lữ Quán
Lữ quán không bè bạn
Nghĩ tình tự nhiên đau
Đèn mờ khêu chuyện cũ
Nhạn thưa gây thêm sầu
Mơ quê cho tới sáng
Thư nhà cách năm sau
Sông xanh lồng trăng khói
Ngoài cửa buộc thuyền câu.
Lời bàn:
Một bài ngũ ngôn bát cú toàn bích. Bố cục chặt chẽ. Niêm luật chỉnh tề. Lời thơ trang nhã. Kết thúc hợp tình: Đêm nào cũng mơ về quê cho tới gần sáng, thư nhà thì mỗi hai năm mới có một lá. Cách tốt nhất để giải sầu trong tâm trạng này là chèo thuyền trên sông dưới trăng thanh.
Con Cò
***
Trọ Quán Khách
Trọ đêm thiếu bạn bè,
Lòng lắng đọng buồn se.
Đèn lụn khơi niềm cũ,
Nhạn kêu động giấc hòe
Mộng xa vừa sáng tỉnh,
Tin tức cách năm về,
Trăng khói sông xanh biếc,
Thuyền câu buộc trước hè.
Mỹ Ngọc
July 16/2023.
***
Quán trọ không bạn hiền,
Tim nặng nỗi niềm riêng,
Đèn mờ thương chuyện cũ,
Nhạn vắng sợ sầu miên,
Mộng tỉnh, trời gần sáng,
Thư nhà chẳng tới liền,
Sông xanh mờ trăng khói,
Bên cửa cột con thuyền.
Bát Sách.
(ngày 16/07/2023)
***
Đêm Quán Trọ
Quán trọ cô đơn vắng bạn hiền
Tâm tư chôn kín nỗi niềm riêng
Tàn đêm chuyện cũ hoài vương vấn
Tiếng nhạn nhặt thưa giấc mộng phiền
Mơ về cố quận trời hừng sáng
Ròng rã thư nhà đã trọn niên
Mờ ảo dòng sông sương tỏa lạnh
Chờ ai neo buộc một ngư thuyền.
Kim Oanh
***
Mái Chèo Sông Nước
Dặm trường lữ quán trú đêm,
Không người bầu bạn êm đềm canh thâu.
Ngẫm đi nghĩ lại bi sầu,
Bên đèn leo lét, mái đầu ngẩn ngơ.
Chuyện xưa quay quắt bơ phờ,
Nhạn kêu thảng thốt - giấc mơ lạnh tràn...
Mộng xa vời vợi võ vàng:
Quê nhà quay lại - xốn xang dạ hồn.
Giật mình trời sáng ngoài thôn,
Thơ nhà ngóng đợi, mõi mòn hằng niên.
Thanh giang mờ ảo cảnh tiên,
Bóng trăng diễm tuyệt nơi triền núi non.
Chiếc thuyền dây cột bãi cồn,
Nhanh tay tháo gỡ - bồn chồn ra khơi...
Khánh-Hưng
***
Quán Trọ
Quán trọ không bè bạn
Tình buồn tự nén sâu
Đèn khuya khơi chuyện cũ
Nhạn tắt giấc mơ sầu
Mộng dứt trời hừng sáng
Thư nhà đợi quá lâu
Sông Thương trăng khói tỏa
Trước ngõ buộc thuyền câu
Bạn bè quán trọ có đâu
Ngậm ngùi tình đọng lắng sâu mấy mùa
Đèn khuya khơi chuyện cũ xưa
Bên trời lạnh lẽo nhạn khua giấc sầu
Mộng về vừa tới sáng mau
Thư nhà cách một năm sau một lần
Sông xanh trăng khói ân cần
Thuyền câu hờ buộc trước sân quán nhà!
Lộc Bắc
Jul23
***
Nguyên Tác: Phiên Âm:
旅宿- 杜牧 Lữ Túc – Đỗ Mục
旅館無良伴 Lữ quán vô lương bạn
凝情自悄然 Ngưng tình tự tiễu nhiên
寒燈思舊事 Hàn đăng tư cựu sự
斷雁警愁眠 Đoạn nhạn cảnh sầu miên
遠夢歸侵曉 Viễn mộng qui xâm hiểu
家書到隔年 Gia thư đáo cách niên
湘江好煙月 Tương Giang hảo yên nguyệt
門繫釣魚船 Môn hệ điếu ngư thuyền
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐 詩-清-聖祖玄燁
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代 詩選-明-曹學佺
Phiền Xuyên Tập - Đường - Đỗ Mục 樊川集-唐-杜牧
Đường Thi Tam Bách Thủ - Thanh 唐诗三百首
Ghi chú:
Lữ quán: những ngôi nhà dành cho khách du lịch ngày xưa
Ngưng tình: tình ý tập trung
Tiễu nhiên: im lặng, buồn bã
Hàn đăng: đèn cô đơn trong đêm lạnh, mô tả một môi trường cô đơn, ảm đạm.
Viễn mộng: giấc mơ của những người ở xa.
Xâm hiểu: bình minh
Gia thư: thư từ gia đình
Tương Giang: sông Tương bắt nguồn gốc từ Quế Lâm 桂林, huyện Hưng An 兴安县, tỉnh Quảng Tây, chảy vào Động Đình Hồ 洞庭湖 là con sông dài nhất của tỉnh Hồ Nam
Yên nguyệt: trăng bị sương mù bao phủ, ánh trăng mờ nhạt
Dịch Nghĩa:
Lữ Túc Ðêm Nơi Quán Trọ
Lữ quán vô lương bạn Lữ quán không người ai đối ẩm,
Ngưng tình tự tiễu nhiên Tâm tư ngưng động vương ý sầu.
Hàn đăng tư cựu sự Bên đèn lạnh lẽo, nhớ đến chuyện cũ
Đoạn nhạn cảnh sầu miên Nhạn kêu phá giấc ngủ chập chờn.
Viễn mộng quy xâm hiểu Mơ về quê hương gần sáng mới tỉnh giấc,
Gia thư đáo cách niên Thư nhà cả năm mới nhận được.
Tương Giang hảo yên nguyệt Sông Tương quyện sương mù dưới trăng mờ,
Môn hệ điếu ngư thuyền Chiếc thuyền câu cột trước cửa quán.
Phân tích:
Nói về sự cô đơn của khách xa nhà phải ngủ đêm lại lữ quán. Xa nhà một thân một mình, buồn là chuyện bình thường. Trong câu 5, thi nhân xem mộng cũng như chuyến đi xa. Vì quê hương quá xa nên giấc mộng phải dài để về đến nơi.
Câu 7 của mộc bản và nhiều bản văn cho là sông Tương. Tuy nhiên, có người cho là Đỗ Mục chưa từng đặt chân đến sông Tương, nên nghi ngờ bài thơ không phải của Đỗ Mục, dù giới học thuật cho là văn cách không thể nhầm lẫn. Đường Thi Tam Bách Thủ của Hành Đường Thoái Sĩ chép là sông Thương 沧.
Bài ngũ ngôn luật thi này rất chuẩn vể niêm vận, tiết tấu. Trong phần đối xứng, ngoài đối về từ, thanh, ý…, đặc biệt còn đối về thứ loại của ý mới tài tình.
Hàn đăng (hình ảnh) tư (tĩnh) cựu sự (cũ) đối với:
Đoạn nhạn (âm thanh) cảnh (động) sầu miên (mới)
Viễn mộng (ý) quy (về) xâm hiểu (mau) đối với:
Gia thư (vật) đáo (đến) cách niên (lâu)
Dịch Thơ:
Ðêm Nơi Quán Trọ
Quán trọ đìu hiu thiếu bạn hiền,
Tâm tư khép kín nỗi niềm riêng.
Bên đèn leo lét ôn sầu cũ,
Cô nhạn phá tan giấc ngủ yên.
Tỉnh giấc hoài hương trời chập sáng,
Hơn năm mới được thơ nhà biên.
Sông Tương sương phủ trăng mờ tỏa,
Ngoài cửa quán đêm cột khách thuyền.
A Night At A Tavern by Du Mu
I stayed at a tavern with no friends.
Loneliness and grief overcame my spirit.
Under the cold lamp, I reminisced the past.
A lost wild goose cry woke me from my sleep.
Awaken at dawn from a homeward dream,
I read, a year late, a letter from home.
The moon shone over fog on the cold river
And a fisherman boat moored at the inn's door.
A Night At A Tavern by Du Mu
Translation by Witter Bynner
Solitary at the tavern,
I am shut in with loneliness and grief.
Under the cold lamp, I brood on the past;
I am kept awake by a lost wildgoose.
Roused at dawn from a misty dream,
I read, a year late, news from home --
And I remember the moon like smoke on the river
And a fisher-boat moored there, under my door.
A Night at an Inn by Du Mu
Translation by Betty Tseng
I stopped over at an inn without a companion,
I became immersed in my own thoughts as I of silence took heed.
By a lamp in the cold I pondered over my past,
A sudden cry of a lone goose disturbed my light and worried sleep.
I just dreamt of homecoming, only to wake up to another day dawning on me,
It's been a year since I last a letter from home receive.
The river is bleak, the moon and the fog picturesque,
Outside the inn moor fishing boats by the quay.
Phí Minh Tâm
***
Bài Cảm Tác:
Không bè chẳng bạn lê thê một mình
Đầu óc tê dại linh tinh
Xứ Mỹ tị nạn yên bình an sinh
Kiếm tiền lo gửi gia đình
Vợ con cha mẹ bao tình xót xa
Bảo trợ bao giờ mới qua
Tin qua tin lại đường xa mong chờ
Đồ Cóc
rất tuyệt vời
Trả lờiXóa