* XUẤT XỨ:
Người ta hay nói: "Đường Thi, Tống Từ". Tô Đông Pha người đời
Tống, nên bài Bốc Toán Tử của ông làm là một bài Từ vì có câu dài ngắn
khác nhau. Sang đời Tống, có thể vì bị qúa gò bó trói buộc bởi Luật cuả
thơ Đường, nên thi nhân mới buông thả cho câu thơ dài ngắn khác nhau,
vừa dễ diễn ý, diễn tình, vừa dễ dùng từ, vừa dễ phổ nhạc cho du dương
trầm bổng... Nên thể TỪ xuất hiện,(giống như phong trào THƠ MỚI cuả ta
hồi thời Tiền Chiến vậy!).
Đây là bài Từ được Tô Đông Pha làm vào tháng 12 năm Nguyên Phong
thứ 5, để gởi gắm tâm sự khi bị biếm đến Hoàng Châu ngụ ở Định Tuệ Viện
sau vụ án Ô Đài Thi.
Bốc Toán Tử 卜算子 chỉ là tên cuả một Thể loại Từ. Loại từ nầy gồm
có 44 chữ chia làm hai vế, vế trên 22 chữ, vế dưới cũng 22 chữ, với bố
cục 5-5-7-5 và gieo hai vần trắc ở cuối câu 2 và cuối câu 4. Bài Bốc
Toán Tử nầy có tựa chính thức là:
Bốc Toán Tử 卜算子 :
黃州定慧院寓居作 Hoàng Châu Định Tuệ Viện Ngụ Cư Tác
缺月挂疏桐, Khuyết nguyệt quải sơ đồng,
漏斷人初靜。 Lậu đoạn nhân sơ tịnh.
時見幽人獨往來, Thời kiến u nhân độc vãng lai,
縹緲孤鴻影。 Phiếu diễu cô hồng ảnh.
驚起卻回頭, Kinh khởi khước hồi đầu,
有恨無人省。 Hữu hận vô nhân tỉnh.
揀盡寒枝不肯棲, Giản tận hàn chi bất khẳng thê,
楓落吳江冷。 Phong lạc Ngô giang lãnh .
蘇軾 (東坡) Tô Thức (Đông Pha)
***
* CHÚ THÍCH:
- Sơ Đồng 疏桐: SƠ 疏 nầy là Thưa thớt, hời hợt; nên SƠ ĐỒNG là Cây ngô đồng đã xơ xác lá vì trời đã ở buổi cuối đông.
- Sơ Tịnh 初靜: SƠ 初 nầy là Bắt đầu, là vừa mới. "Nhân chi Sơ, tính bản
thiện" là chữ SƠ nầy, nên SƠ TỊNH là mới bắt đầu yên lặng.
- U Nhân 幽人: chỉ con người lặng lẽ thâm trầm như có tâm sự gì đó.
- Phiếu Diễu 縹緲: Xa xôi ẩn hiện, chập chờn như có như không.
- Kinh Khởi 驚起: Chợt giật mình, chợt kinh ngạc...
- Tỉnh 省 : Xem xét, Khuyên lơn, VÔ NHÂN TỈNH 無人省 : Không có người nào để chia xẻ, tâm sự, an ủi nhau.
- Giản 揀: là Chọn lựa, chắc lọc.
- Thê 棲: là Đậu lại, là Nương tựa.
* NGHĨA BÀI THƠ:
Sáng tác khi cư ngụ ở Định Tuệ Viện xứ Hoàng Châu
Vầng trăng khuyết treo trên cây ngô đồng xơ xác lá, canh đã tàn
tiếng người cũng mới vừa yên. Nhưng lại có một người u nhã còn luôn đi
lại một mình, như bóng chim hồng nhạn cô độc đang chấp chới bên trời,
bỗng giật mình quay đầu lại. Ôm mối hận trong lòng mà không ai người
biết đến hỏi han. Đã chọn gần hết những cành cây lạnh mà vẫn chưa chịu
đậu vào cành nào, đành chịu như chiếc lá phong rơi rụng xuống dòng Ngô
Giang lạnh lẽo mà thôi!
Mượn hình tượng của con chim nhạn cô độc giữa đêm trăng mà gởi
gắm tâm sự cuả mình, cao ngạo như cánh hồng cô độc trên cao mà xem
thường miệt thị những thói tục tầm thường thấp kém!
Bài từ nầy còn có một dị bản nữa với câu cuối cùng là:
寂寞沙洲冷. Tịch mịch sa châu lãnh.
Có nghĩa:
Những cồn cát giữa sông (sa châu) lạnh lẽo vắng tanh!
* DIỄN NÔM:
Trăng khuyết ngô đồng thưa,
Canh tàn người đà vắng.
Thơ thẩn kià ai vẫn vãng lai,
Cánh hồng hun hút bóng.
Giật mình chợt quay đầu,
Hận này ai người thấu?
Cành lạnh khắp cùng khó tìm nơi,
Bãi vắng không nơi đậu!
Canh tàn người đà vắng.
Thơ thẩn kià ai vẫn vãng lai,
Cánh hồng hun hút bóng.
Giật mình chợt quay đầu,
Hận này ai người thấu?
Cành lạnh khắp cùng khó tìm nơi,
Bãi vắng không nơi đậu!
Lục bát:
Cành thưa trăng khuyết ngô đồng,
Canh tàn lặng tiếng người không ồn ào.
Một mình ngơ ngẩn ra vào,
Như cánh hồng vút trời cao một mình.
Quay đầu ngơ ngác làm thinh,
Hận không người tỏ biết tìm ai đây?
Vòng quanh cành lạnh ngàn cây,
Vắng tanh cồn cát lạnh đầy ven sông!
Một mình ngơ ngẩn ra vào,
Như cánh hồng vút trời cao một mình.
Quay đầu ngơ ngác làm thinh,
Hận không người tỏ biết tìm ai đây?
Vòng quanh cành lạnh ngàn cây,
Vắng tanh cồn cát lạnh đầy ven sông!
Đỗ Chiêu Đức
***
Bốc Toán TửTrăng khuyết lửng ngô đồng
Lậu tàn người lặng lẽ
Tới lui thơ thẩn vẻ u sầu
Cô hồng trời quạnh quẽ
Kinh hãi chợt quay đầu,
Hận sầu không ai chạnh
Chọn mãi cành chẳng yên
Im lìm cồn cát lạnh!
Mailoc
***
Theo Quên Đi:
漏斷 Lậu đoạn có nghĩa là Đồng hồ nước đã ngừng nhỏ giọt.
Bốc Toán Tử
黃州定慧院寓居作 Hoàng Châu Định Tuệ Viện Ngụ Cư Tác
缺月挂疏桐 Khuyết nguyệt quải sơ đồng,
漏斷人初靜 Lậu đoạn nhân sơ tịnh.
時見幽人獨往來 Thời kiến u nhân độc vãng lai,
縹緲孤鴻影 Phiếu diễu cô hồng ảnh.
驚起卻回頭 Kinh khởi khước hồi đầu,
有恨無人省 Hữu hận vô nhân tỉnh.
揀盡寒枝不肯棲 Giản tận hàn chi bất khẳng thê,
楓落吳江冷。 Phong lạc Ngô giang lãnh .
蘇軾 Tô Thức
Dịch Nghĩa:
Viết khi ở viện Định Tuệ Hoàng Châu
Vầng trăng khuyết đeo trên nhánh ngô đồng
Đồng hồ nước đã ngừng nhỏ giọt và người cũng bắt đầu yên nghỉ.
Ai có thấy một người buồn rầu đi tới đi lui
Như bóng chim hồng cô đơn ẩn hiện
Quay đầu nhìn lại chợt thấy hoảng sợ
Mang nổi ấm ức mà không ai xem xét
Đã chọn hết chỉ thấy những cành lạnh buốt nên không thể đậu
Đành như lá phong rơi rụng xuống dòng Ngô Giang lạnh lẽo.
Dịch Thơ: Cánh Nhạn lẻ Loi
1/
Trăng khuyết dựa ngô đồng
Đêm trôi người lặng lẻ
U uất giờ đây chỉ riêng mình
Bóng nhạn về khe khẻ
Chợt sợ quay đầu nhìn
Hận này ai chia sẻ
Nhìn quanh cành lạnh khó nương thân
Lá rơi sông vắng vẻ.
2/
Ngô đồng vắt vẻo trăng già
Đồng hồ ngưng giọt người đà ngủ yên
Có ai thấu hiểu niềm riêng
Một thân một bóng truân chuyên nhạn hồng
Nỗi lo chợt đến nơi lòng
Hận này ai biết mà hòng sẻ san
Cành cây buốt giá hoang mang
Lá phong rụng xuống Ngô Giang lạnh lùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét