Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2020

Văn Chương Pháp - Alexis Felix Arvers


Thi Sĩ Và Một Bài Thơ Nổi Tiếng
Alexis Felix Arvers Célébre Sonnet

I.-BIOGRAPHIE: Sơ lược tiểu sử

Qui est-ce ARVERS? Thi sĩ và Kịch tác gia Pháp nhờ một Bài thơ mà nổi tiếng. Tên đầy đủ là Alexis-Félix ARVERS,
Sinh ngày 23/7/1806 tại PARIS- PHÁP, mất ngày 7/11/1850, ở tuổi 45

“Tinh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh, một đời tài hoa” (Kiều)

Là con của một thương gia rượu vang tại CÉZY, Hạt YONNE, cách Paris 162 km về phía Đông-Nam. Ông theo học ngành Luật và trở thành Clerc de notaire ( Lục sự), nhưng lại say mê văn chương, mà ông cho là “thiên phú” và năm 25 tuổi cho ra đời Thi Tập “Mes Heures Perdues” (Những tháng ngày đánh mất của tôi) năm 1833, trong đó có thi phẩm nổi tiếng truyền tụng cho đến nay: Bài thơ không tựa nên được người đời biết đến với cái tên SONNET vì làm theo thể thơ sonnet, hay rõ hơn SONNET D’ARVERS Baì thơ làm theo mẫu thơ sonnet của thi sĩ ARVERS ( sonnet là loại thơ 14 câu gồm 4 đoạn, 2 đoạn 4 câu và 2 đoạn 3 câu, theo vần điệu ấn định) 

Sonnet D’arvers

Mon âme a son secret, ma vie a son mystère
Un amour éternel en un moment conçu:
Le mal est sans espoir, aussi j'ai dû le taire,
Et celle qui l'a fait n'en a jamais rien su.

Hélas! j'aurai passé près d'elle inaperçu,
Toujours à ses côtés et pourtant solitaire;
Et j'aurai jusqu'au bout fait mon temps sur la terre,
N'osant rien demander et n'ayant rien reçu.

Pour elle, quoique Dieu l'ait faite douce et tendre,
Elle suit son chemin, distraite et sans entendre
Ce murmure d'amour élevé sur ses pas.

A l'austère devoir pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d'elle:
"Quelle est donc cette femme ?" Et ne comprendra pas!

Felix Arvers
Bản khắc họa ảnh Arvers

Năm 30 tuổi, ông bỏ hẳn ngành luật, chuyên viết kịch, lui tới các Salons littéraires (Câu lạc bộ văn nghệ), đặc biệt là Cénacle ARSENAL (Thi Hội ARSENAL) do Nhà văn Charles NODIER (Hàn lâm viện Pháp) chủ trì và các Hành lang Hí viện ( Galleries théâtrales). Các vở kịch của ông cũng có được chút tiếng tăm thời bấy giờ, nhưng sau nầy không còn được nhắc đến nữa.

Quả thật, cuộc đời thường nói chung và cuộc đời nghệ thật nói riêng của ông quá ngắn ngủi. Năm 1850, ở tuổi 45 ông bị chứng đau tủy cột sống (moelle épinière) và mất trong sự nghèo nàn và bị quên lãng (pauvre et oublié). 

II.-VĂN NGHIỆP,

Do bài SONNET của Ông quá nổi tiếng, nên ông được người đời tặng cho Biệt danh “ THI SĨ MỘT BÀI THƠ”. Thật ra, ngoài những vở kịch ngắn của ông được trình diễn trên sân khấu và cũng có chút ít tiếng tăm thời bấy giờ, ông còn sáng tác tất cả 32 bài thơ cho các thân hữu như A. De Musset, Alfred Tattet, Victor HUGO, Bury, MM Barthélemy & Méry, Charles X... về những đề tài như “Ce qui peut arriver à tout le monde” (việc có thể xảy ra cho mọi người), “Déclaration” (Tuyên cáo), “Examen de conscience” (Xét lương tâm), Fête du Peuple ( Lễ lộc trong dân chúng),...

Kiểm điểm, thấy có tất cả 32 bài thơ sáng tác cho các thân hữu và các đề tài sau đây:
Les 32 poèmes de Félix Arvers :

o À Alfred de Musset, À Alfred Tattet, À MM. Barthélemy et Méry, À Charles X, À Gianetta, À Madame ***, À mon ami ***,
À Victor Hugo, Bury, Ce qui peut arriver à tout le monde. Déclaration, Examen de conscience, Fête du Peuple,
o La femme adultère, L'amour caché, L'anniversaire, La pauvreté, La première passion, La ressemblance,.
o La Saint-Barthélemy, La vengeance, La vie, La villégiature, Le commencement de l'année, Le livre de mon cœur,.
Le poète, Le retour de la bien-aimée, L'immortalité, Lorsqu'autrefois, Ospitalita, Pourtant, si tu m'aimais,.
o Sonnet à mon ami R.
Ses poèmes classés par œuvres (thi phẩm xếp theo tập):
- Mes heures perdues (1833). Thời gian đã mất)
- Pièces inédites (1851) (Tác phẩm không được xuất bản) 

III.- CÁC GIAI THOẠI.

Vì khi ghi lại 14 câu của Bài thơ trên tập vở của Marie NODIER, Tác giả không có đề TỰA, nên người đời căn cứ vào nội dung và hình thức mà gán cho nó cái tên cho dễ nhớ và khỏi nhầm lẫn với các bài  thơ khác. Thí dụ:

-SONNET D’ARVERS hay ngắn gọn SONNET vì làm theo thể sonnet là 1 thể thơ cổ điển, có từng 
đoạn 4 câu (strophe), mỗi câu có 12 âm tiết (syllables), vần liền hay xen kẻ (như “ère” và “aire”, “cu”
và “su”...)
-“Amour Solitaire”, “Amour Désespéré”, “Amour Muet”, “Amour Sans Retour”, “Amour Platonique”
Tình Đơn Phương, Tình Tuyệt Vong, Tình Câm hay Câm Nín, Tình Một Chiều, Tình Lý Tưởng, v.v...là dựa theo nội dung.
Có người vẵn “tiếc dùm” cho tác giả: Sao không tìm cách “thố lộ tâm tư” để xem “đối tượng” phản ứng như thế nào? Ướm thử xem sao, có hy vọng gì không? Thật vậy, Không ít các mệnh phụ chán chê chồng vì nhiều lẽ, hoặc là vì chồng lớn tuổi, chồng bỏ bê để chạy theo công danh, bóng sắc, có chồng vì bị cưởng ép, cha mẹ đặt đâu ngồi đó...nên đôi khi cũng có ước mơ được giải thoát, hoặc trên thực tế, hay ít ra cũng trong tâm tư. Như nhà văn PHAN KHÔI, bị bỏ tù, còn được người thiếp của viên Chủ ngục tìm cách tỏ tình khi nhà văn “được” tên Chủ ngục cho giải đến nhà bắt viết câu đối Tết. Nhà văn Pháp G. Flaubert đã viết:”Les balconières et les fenêtrières sont faciles à  séduire” (Những mệnh phụ hay đứng ở hành lang hay cửa sổ thì dễ quyến rủ)

Nói thế là người ta nghĩ đến Bài thơ nổi tiếng không kém là Bài thơ Đường “TIẾT PHỤ NGÂM’ của
Tiết phụ ngâm 節婦吟 • Khúc ngâm của người tiết phụ

節婦吟

君知妾有夫, 
贈妾雙明珠。 
感君纏綿意, 
繫在紅羅襦。 
妾家高樓連苑起, 
良人執戟明光裡。 
知君用心如日月, 
事夫誓擬同生死。 
還君明珠雙淚垂, 
恨不相逢未嫁時。

Tiết phụ ngâm 

Quân tri thiếp hữu phu, 
Tặng thiếp song minh châu. 
Cảm quân triền miên ý, 
Hệ tại hồng la nhu. 
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi, 
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý. 
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt, 
Sự phụ thệ nghĩ đồng sinh tử. 
Hoàn quân minh châu song lệ thuỳ, 
Hận bất tương phùng vị giá thì.

Dịch nghĩa 

Chàng biết em đã có chồng 
Tặng em đôi hạt châu sáng 
Cảm động trước tình đeo đẳng của chàng 
Em buộc vào áo lụa hồng 
Nhà em có lầu cao bên vườn hoa 
Chồng em cầm kích túc trực trong điện Minh Quang 
Vẫn biết lòng chàng trong sáng như mặt trời, mặt trăng 
(Nhưng) em đã thề cùng sống chết với chồng 
Trả lại chàng hạt châu sáng, hai hàng nước mắt ròng ròng 
Ân hận rằng không thể gặp nhau lúc chưa chồng.

Dịch ra tiếng Việt Vì là bài thơ quá hay nên có rất nhiều bản dịch ra Tiếng Việt (ít nhất là 16 bản), xin chọn 2 bản dịch sớm hơn hết của 2 học giả có tiếng là Ngô Tất Tố và  Trần Trọng Kim.

Bản dịch của Ngô Tất Tố
(Gửi bởi Vanachi ngày 19/02/2006)

Chàng hay em có chồng rồi, 
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành. 
Vấn vương những mối cảm tình, 
Em đeo trong áo lót mình màu sen. 
Nhà em vườn ngự kề bên, 
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang. 
Như gương, vâng biết lòng chàng, 
Thờ chồng, quyết chẳng phụ phàng thề xưa. 
Trả ngọc chàng, lệ như mưa, 
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.

Bản dịch của Trần Trọng Kim
(Gửi bởi Vanachi ngày 14/07/2006)

Chàng hay thiếp có chồng rồi 
Còn đem cho thiếp một đôi ngọc lành. 
Cảm lòng quyến luyến không đành 
Thiếp đeo vào áo lót mình màu sen 
Vườn kia nhà thiếp kề bên, 
Lang quân chấp kích trong đền Minh Quang 
Biết chàng bụng sáng như gương 
Thờ chồng thề quyết đá vàng chẳng sai. 
Gạt châu, trả ngọc chàng thôi, 
Tiếc không gặp gỡ đương thời còn son.

Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995

Xin trở lại Bài Sonnet D’arvers

IV.-CÁC BẢN DỊCH BÀI SONNET 

Dĩ nhiên, vì đây là một thi phẩm nổi tiếng nên có nhiều bản dịch. Xin gởi kèm theo đây hai bản dịch ra Anh văn và một số bản dịch ra Việt văn để tiện việc tham khảo 

My Secret

My soul its secret has, my life too has its mystery,
A love eternal in a moment's space conceived;
Hopeless the evil is, I have not told its history,
And the one who was the cause nor knew it nor believed.

Alas! I shall have passed close by her unperceived,
Forever at her side, and yet forever lonely,
I shall unto the end have made life's journey, only
Daring to ask for naught, and having naught received.

For her, though God has made her gentle and endearing,
She will go on her way distraught and without hearing
These murmurings of love that round her steps ascend.

Piously faithful still unto her austere duty,
She will say, when she shall read these lines full of her beauty,
"Who can this woman be?" and will not comprehend.

Translated by Henry Wadsworth Longfellow
***
The Sonnet of Arvers (Le Sonnet d'Arvers) 
· Artist: Serge Gainsbourg
· Album: L'étonnant Serge Gainsbourg
· Song: Le Sonnet d'Arvers
French original (nguyên tác)


Le Sonnet d'Arvers

Ma vie a son secret mon âme a son mystère
Un amour éternel en un moment conçu
Le mal est sans espoir aussi j'ai dû me taire
Et celle qui l'a fait n'en a jamais rien su
Hélas j'aurai passé près d'elle inaperçu
Toujours à ses côté pourtant solitaire
Et j'aurai jusqu'au bout fait mon temps sur la terre
N'osant rien demander et n'ayant rien reçu
Pour elle quoi que Dieu l'ait faite douce et tendre
Elle ira son chemin distraite et sans entendre
Ce murmure d'amour élevé sur ses pas
À l'austère devoir pieusement fidèle
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d'elle
"Quelle est donc cette femme ?"
Et ne comprendra pas.

***
English translation
Submitted by Gavier
The Sonnet of Arvers

My life has its secret my soul has its mystery
An eternal love conceived in a moment
Evil is without hope and I’ve had to keep quiet
And she who did it never knew anything about it
Alas I will have passed close to her unnoticed
Always at her side and yet alone
And I will have to the end spent all my time on earth
Not daring to ask for anything and receiving nothing
For her even though God made her sweet and gentle
She will go her way distracted and unhearing
This murmur of love raised by her steps
To austere duty piously faithful
She will say, reading these verses all filled with her
“So who is this woman?”
And will not understand

Và đây là Tình Tuyệt Vọng bản dịch của Nhà văn Khái Hưng, Thuộc Tự Lực Văn Đoàn, bị VM thủ tiêu tại Bến đò CỰA GÀ, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Định. 

Sơnnet De Félix Arvers - Khái Hưng dịch

Lòng ta chôn một khối tình 
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu 
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu 
Mà người gieo thảm như hầu không hay 
Hỡi ơi, người đó ta đây 
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân 
Dẫu ta đi trọn đường trần 
Chuyện riêng đâu dám một lần hé môi 
Người dù ngọc nói hoa cười 
Nhìn ta như thể nhìn người không quen 
Đường đời lặng lẽ bước tiên 
Ngờ đâu chân đạp lên trên khối tình 
Một niềm tiết liệt đoan trinh 
Xem thơ nào biết có mình ở trong 
Lạnh lùng, lòng sẽ hỏi lòng: 
"Người đâu tả ở mấy giòng thơ đây".

Và nhiều dịch giả khác nữa, mời vào xem trong Encyclopedia vì bài viết khá dài không thể chép ra đây hết được (cũng như những bản dịch của bài TIẾT PHỤ NGÂM)


V.-THƠ NHÁI (IMITED POEMS, PASTICHES) PASTICHES ET REPRISES

Vì sự “thầm lặng”, “câm nín” của Arvers, nhiều thi sĩ tức tối, đua nhau làm những Bài Thơ Nhái để vui với nhau,  vô hình chung “làm quảng cáo” cho Arvers, nội dung đại để như lối “xướng họa” của mình vậy, tác giả của những Pastiches tự đặt mình vào địa vị của một người bạn, hay chính người “đàn bà” trong mộng của Arvers: 
-“Ông bạn ơi! Làm gì mà Ông giữ kín như vậy chứ? Nói ra đi! Ông không nói ra, ai mà biết được Ông muốn gì mà “đáp ứng”. Cầu đi chứ, không cầu sao có được?”
-“Này Ông bạn ơi! Làm gì mà giữ kín như vậy, Ông bạn không nói ra “chúng tôi” cũng đã biết tổng Ông bạn muốn gì rồi! Trời cho phụ nữ chúng tôi có những giác quan bén nhạy, chỉ cần nhìn cái nhìn “đắm đuối”, cử chỉ “lúng ta lúng túng” của Ông bạn là chúng tôi biết ngay. Nhưng vì tôi đã có chồng và tôi muốn gìn giữ lòng trung thành với  nhà tôi nên làm ngơ đấy thôi. “I xin U”
-Thậm chí có một “Ông bạn” kể lại máy xe. vỏ xe mình có vấn đề, nhưng may quá thắng kịp tại một ngã đường vắng không đụng một phụ nữ, tưởng đâu êm, không ngờ cảnh sát cho ticket và khi người phụ nữ nầy đọc báo hay được  câu chuyên bèn rủa “đồ chauffard lái xe ẩu tả” và đó là “điều bí mật the secret “ của anh ta!

Ghi chú: Pastiches vắn tắt “work of art that mixes styles or copies the style of the another artist tác phẩm có cóp nhặt ít nhiều phong cách hoặc nhại theo tác phẩm của một nghệ nhân khác”. Tương tự như “Xướng Họa “ của chúng ta vậy.

Sau đây xin chép ra vài Pastiches nói trên: nội dung đại khái như: Sao lại bảo rằng “kín đáo”, “không ai biiết”, “tuyệt vọng”? 

-Bạn chưa nói ra, mọi người đều biết, trời sinh người đàn bà nhạy cảm, chỉ cần thấy cử chỉ lúng túng của bạn và những dư luận chung quanh là đoán được ngay bạn muốn gì

-Sao bạn lại dấu kín mà không thổ lộ ra? Có nói ra người ta mới biết bạn muốn gì chứ. Không cầu sao có được? Nói ra đi chứ

-Chắc chắn là “người đàn bà thần tượng “ của bạn cũng đã biết, nhưng vì muốn giữ lòng chung thủy với chồng nên không nói ra đấy thôi: “Elle avait bien compris, mais ne le đisait pas” 

Pastiche De Louis Aigoin 

Ami, pourquoi me dire avec tant de mystère
Que l'amour éternel en votre âme conçu
Est un mal sans espoir, un secret qu'il faut taire
Et comment supposer qu'elle n'en ait rien su ?

Non, vous ne pouviez point passer inaperçu,
Et vous n'auriez pas dû vous croire solitaire.
Parfois les plus aimés font leur temps sur la terre
N'osant rien demander et n'ayant rien reçu.

Pourtant Dieu mit en nous un coeur sensible et tendre.
Toutes, dans le chemin, nous trouvons doux d'entendre
Le murmure d'amour élevé sur nos pas.

Celle qui veut rester à son devoir fidèle
S'est émue en lisant ces vers tout remplis d'elle :
Elle avait bien compris, mais ne le disait pas.

***
Ssecond Pastiche De Louis Aigoin 

Mon cher, vous m'amusez quand vous faites mystère
De votre amour immense en un moment conçu,
Vous êtes bien naïf d'avoir voulu le taire :
Avant qu'il ne fût né, je crois que je l'ai su.

Pouviez-vous, m'adorant, passer inaperçu,
Et, vivant près de moi, vous croire solitaire ?
De vous il dépendait d'être heureux sur la terre :
Il fallait demander et vous auriez reçu.

Apprenez qu'une femme au coeur épris et tendre
Souffre de suivre ainsi son chemin sans entendre
L'aveu qu'elle espérait trouver à chaque pas.

Forcément, au devoir on reste alors fidèle ;
J'ai compris, vous voyez, ces vers "tout remplis d'elle":
C'est vous, mon pauvre ami qui ne compreniez pas.

***
Pastiche De Maurice Donnay

Mon âme a son secret, ma vie a son mystère,
Un déplorable amour en un moment conçu,
Mon malheur est public et je n'ai pu le taire,
Quand elle m'a trompé, tout le monde l'a su.

Aucun homme à ses yeux ne passe inaperçu,
Son coeur par-dessus tout craint d'être solitaire :
Puisqu'il faut être deux pour le bonheur sur terre,
Le troisième par elle est toujours bien reçu.

Seigneur, vous l'avez faite altruiste et si tendre
Que, sans se donner toute, elle ne peut entendre
Le plus discret désir murmuré sur ses pas ;

Et fidèle miroir d'une chère infidèle,
Elle dira lisant ces vers tout remplis d'elle :
"Je connais cette femme." et n'insistera pas.

***
Pastiche De Madame Gay 

Es-tu bien sûr, ami, qu'elle n'ait pu l'entendre,
Ce murmure d'amour élevé sur ses pas ?
La femme, crois-moi, sait toujours le comprendre
Ce langage muet qui se parle tout bas.

Si Dieu l'avait créée à la fois douce et tendre,
Elle a dû se livrer de douloureux combats
Et tenir à deux mains son coeur pour le défendre
Contre un amour si vrai qu'il ne se trahît pas.

A l'austère devoir pieusement fidèle,
Sa vertu la plus haute était peut-être celle
De paraître insensible et distraite à ta voix.

Penses-tu seul avoir un secret dans ton âme ?
Il est sur cette terre, ami, plus d'une femme
Qui garde un front serein tout en traînant sa croix.

***
Autre Pastiche

Mon cadre a son secret, ma toile a son mystère :
Paysage éternel en un moment conçu,
Suis-je un pré, suis-je un bois ? Hélas ! je dois me taire,
Car celui qui m'a fait n'en a jamais rien su.

Ainsi je vais passer encore inaperçu.
Toujours assez coté, et pourtant solitaire,
Et mon auteur ira jusqu'au bout de la terre,
Attendant la médaille et n'ayant rien reçu.

Le public, quoique Dieu l'ait fait gobeur et tendre,
Va passer devant moi, distrait, et sans entendre
Malgré mes tons criards, mon appel sur ses pas.

Au buffet du Salon, pieusement fidèle,
Il dira, dégustant son bock tout rempli d'ale :
" Quels sont ces épinards ?" et ne comprendra pas.

***
Autre Pastiche 

Ma Ford a son secret, mes pneus ont leur mystère.
Par un brusque freinage, en un moment conçu,
J'ai failli déraper, aussi j'ai dû me taire :
Celle que j'épargnai n'en a jamais rien su.

Hélas ! je croyais bien passer inaperçu
Ayant stoppé dans un carrefour solitaire,
Mais un agent survint s'élançant ventre à terre,
M'infligeant une amende et m'en donnant reçu.

Pour elle, quoique Dieu l'ait faite agile et tendre,
Elle m'aurait frôlé, distraite, et sans entendre
Le coup de frein brutal qui protégea ses pas.

Au journal du matin pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ce fait tout rempli d'elle:
"Quel est donc ce chauffard ?" et ne comprendra pas. 

VI.-Historique ET DÉDICATAIRE:( LAI LỊCH CỦA BÀI THƠ VÀ NGƯỜI ĐƯỢC ĐỀ TẶNG) 

Hai vấn đề còn lại là bài thơ viết ra lúc nào và đề tặng cho ai.

Năm 1833, trong một buổi tham dự Họp Mặt Văn Nghệ tại Câu Lạc Bộ CÉNACLE ARSENAL do Nhà văn CHARLES NODIER (VIỆN HÀN LÂM) chủ trì, trong một lúc ngẩu hứng, ARVERS viết 14 câu thơ trên quyển sổ của MARIE NODIER, Ái nữ của CHARLES, tức Mme MENNESSIER (đã có chồng), không TỰA , không ĐỀ TẶNG AI ( sans TITRE, sans DÉDICATAIRE), Đó mới là cái rắc rối cho người đời sau. Về Tựa thì cứ thi nhau gán cho hết tựa nầy đến tựa khác như đã nói ở trên, nhưng còn “tặng ai”thì thật sự chưa dứt khoát:

1/ Phần đông cho là tặng cho Marie NODIER, vì lẽ viết trên tập của Marie, nếu không sao lại viết trên đó. Nhưng lại cũng có người phản bác cho là một người kín đáo, trọng đạo đức, không dám nói “yêu một người có chồng” thì sao lại có thể viết lời tỏ tình như thế trên sách vở người đó, phải vậy không? Có thể là xem Marie “như cháu” và mượn tập giấy của cháu để ghi tâm sự của mình 

2/ Có người cho là Mme HUGO, Victor HUGO, tức Adèle HUGO vì hai vần “FIDÈLE” và “ELLE” trong đoạn thơ cuối tương tự như “ADÈLE”,

Điều nầy được Général ARVERS, anh họ của thi sĩ ARVERS xác nhận là do người Cha lập lại nhiều lần vì Mme HUGO cò trẻ đẹp lắm và biết đâu ARVERS thầm yêu trộm nhớ “Le coeur a ses raisons que La Raison ne connait pas!” 

3/ Theo Jean-Pierre FONTAINE, trong “Les Nouveaux Mystères de l’Yonne” (Yonne quê của ARVERS) thì “người được tặng thơ” là bạn thân của ARVERS hồi còn nhỏ nên hai người không thể “yêu nhau” được , cô nầy lại chết yểu và được chôn cùng Nghĩa trang với ARVERS.

4/ Có người lại cho rằng:” Không nhất thiết phải có một người bằng xương bằng thịt nào đó, như ELVIRE của LAMARTINE, THI SĨ có thể tưởng tượng một “nhân vật” để làm thơ tặng “cho có đối tượng”, điều nầy có thể lắm, ai mà biết được sự “ngẩu hứng” của thi sĩ? , nhưng Elvire lại là tên LAMARTINE đặt cho một người yêu có thật ( sẽ có bài nói về LAMARTINE)

Sau cùng có một chi tiết lý thú do Encyclopedia nêu ra là ngay cả GRAND DICTIONNAIRE UNIVERSAL của Pierre LAROUSSE, Ấn bản mới, LE NOUVEAU LAROUSSE, cũng còn nhầm lẫn “ma vie” và “mon coeur” từ nào trước, từ nào sau, mãi cho đến 1914 mới xác định!

Dương Tử 
(Sept 20, 2017)

                                                                                                                                               

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét