Thứ Hai, 22 tháng 10, 2018

Đề Đại Dữu Bắc Dịch 題大庾嶺北驛 - Tống Chi Vấn (636 - 712)

Mới đây, nhận được thơ của một cựu nữ sinh Đoàn Thị Điểm Cần Thơ hỏi thăm "năm nay thầy có đi trốn lạnh ở đâu không", tôi ngồi dịch lại bài "Nhạn trốn lạnh" này gửi đi để thay lời cám ơn và để mọi người cùng đọc cho vui thôi ̣ Cầu chúc an lành ̣ PKT 10/21/2018



題大庾嶺北驛    Đề Đại Dữu Bắc Dịch

陽月南飛雁,    Dương nguyệt nam phi nhạn,
傳聞至此回。    Truyền văn chí thử hồi.
我行殊未已,    Ngã hành thù vị dĩ,
何日複歸來。    Hà nhật phục qui lai?
江靜潮初落,    Giang tịnh triều sơ lạc,
林昏瘴不開,    Lâm hôn chướng bất khai.
明朝望鄉處,    Minh triêu vọng hương xứ,
應見隴頭梅。    Ưng kiến lũng đầu mai!

宋之問               Tống Chi Vấn (636 - 712)

Diễn nghĩa:

Tháng 10, trốn lạnh, nhạn bay về Nam
Nghe nói bay đến đâu đó không hiểu sao lại bay ngược trở về
Còn người sao cứ phải đi mãi nhỉ
Ngày nào mới trở về nhà được đây
Sông êm thủy triều vừa rút xuống
Lâm hôn chướng khí chưa tan
Sáng ra, trời xuân, vời trông cố quận 
Thương người xa xứ, cả một rừng mai vàng đã nở hoa! 
(Viết Ở Quán Dịch Trên Rặng Núi Bắc Đại Dữu)

Phụ Chú: Chuyện kể vào tháng 10, nhạn ở phương Bắc, rủ nhau từng đàn bay về Nam, để trốn lạnh. Ngang qua rặng núi mênh mông, thấy hoa mai nở ngút ngàn , ngỡ mùa xuân ấm đã về, nên đã bay ngược trở lại.

Hà Nhật Phục Quy Lai
PKT - Mây Tần

Tháng mười nhạn trốn lạnh,
Đâu đó không bay xa.
Còn khách đời phiêu bạt,
Ngày nao trở lại nhà?
Sông êm triều mới rút, 
Rừng ám chướng chưa nhòa.
Sáng sớm bên trời lạ, 
Thương ai mai nở hoa.

Phạm Khắc Trí
***
Đè Nơi Trạm Bắc Đại Dữu

Tháng mười phương nam chim bay mãi
Nghe đâu đến đó lại về ngay.
Sao ta lê bước chân hoài,
Ngày nao không biết được quay về làng?
Sông phẳng lặng triều đang rút xuống,
Rừng âm u chướng khí chưa tan.
Sớm trông quê cũ bàng hoàng
Tưởng chừng lắp ló đầu làng rừng mai!

Mailoc phỏng dịch

Cali 2013
***
Đề Thơ Tại Trạm Bắc Núi Đại Dữu

Trốn lạnh, xuôi nam, nhạn sải bay
Giữa đường đổi ý lại về đây
Thân ta năm tháng đi biền biệt
Tâm trí bao lần nhớ quắt quay
Triều thấp, dòng sông buồn phẳng lặng
Rừng xa , sương khói tỏa nhòa phai
Sáng ra, vọng ngóng về quê cũ
Bát ngát một vùng mai mãn khai.

Phương Hà phỏng dịch
***
題大庾嶺北驛 Đề Đại Dữu Bắc Dịch

陽月南飛雁, Dương nguyệt nam phi nhạn,
傳聞至此回。 Truyền văn chí thử hồi.
我行殊未已, Ngã hành thù vị dĩ,
何日複歸來。 Hà nhật phục qui lai ?
江靜潮初落, Giang tịnh triều sơ lạc,
林昏瘴不開, Lâm hôn chướng bất khai.
明朝望鄉處, Minh triêu vọng hương xứ,
應見隴頭梅。 Ưng kiến lũng đầu mai!

宋之問            Tống Chi Vấn

TỐNG CHI VẤN ( 656-712 ), tự là Diên Thanh, còn có tên là Thiếu Liên. Người đất Phần Châu ( thuộc huyện Phần Dương , tỉnh Sơn Tây hiện nay ). Còn có thuyết cho rằng, ông là người Hoằng Nông Hoắc Châu ( thuộc Linh Bảo, tỉnh Hà Nam hiện nay ). Ông là thi nhân nổi tiếng đời Đường.

Tống Chi Vấn là cậu của Lưu Hi Di, cả hai cậu cháu đều rất giỏi thơ và cùng đậu Tiến Sĩ năm Thượng Nguyên thứ hai đời Đường ( 675 ). Hai cậu cháu có một giai thoại về thơ rất thương tâm, sẽ kể hầu quí vị ở bài thơ sau.....

Tông Chi Vấn vì có dính líu đến vụ án Thái Bình Công Chúa, nên bị biếm làm Trường Sử Việt Châu. Khi Đường Tuấn Tôn lên ngôi, ông lại bị đày đến Khâm Châu ( thuộc Khâm huyện tỉnh Quảng Đông ngày nay ). Chính trên đường đi đày này, khi trọ ở bắc dịch quán ở biên giới Giang Tây và Quảng Đông , ông đã làm bài thơ thương cảm nầy 

CHÚ THÍCH:
ĐẠI DỮU LÃNH 大庚嶺 : là một ngọn núi trong Ngũ Đại Lãnh, đây là ranh giới giữa Bắc Nam nằm giữa tỉnh Giang Tây và Quảng Đông. Ngày xưa theo truyền thuyết : Khi nhạn phương Bắc bay về Nam để tránh lạnh, khi bay đến Nam lãnh nầy thì không bay nữa. có thể vì là giao giới giữa Bắc Nam nên khí hậu đã khá ấm áp rồi. Vì khí hậu ôn hòa ấm áp, tháng mười đã thấy nở đầy cả bạch mai và hồng mai, nên còn có tên là MAI LÃNH 梅嶺.
BẮC DỊCH 北驛 : DỊCH là Dịch Quán, nhà trọ cho những công sai, quan viên đi lại nghỉ ngơi. BẮC DICH: là Dịch quán cuối cùng của đất Bắc được xây dưng giữa ranh giới Bắc Nam.
DƯƠNG NGUYỆT 陽月: là tên gọi riêng của tháng Mười theo cách gọi của dân gian là : Chánh Đoan, Nhị Hoa, Tam Đồng, Tứ Mai, Ngũ Bồ, Lục Lệ, Thất Qua, Bát Quế, Cửu Cúc, Thập DƯƠNG, Thập Nhất Hà, Thập Nhị Lạp 「正端、二花、三桐、四梅、五蒲、六荔、七瓜、八桂、九菊、十陽、十一葭、十二臘」( Tháng Giêng gọi là tháng ĐOAN, tháng hai gọi là tháng HOA, tháng ba gọi là tháng ĐỒNG... ) Hiện nay rất ít người biết gọi theo cách nầy, kể cả Hoa Kiều ở khắp nơi trên thế giới.
TRUYỀN VĂN 傳聞 : Theo Truyền thuyết nghe thấy được . Ở đây có nghĩa là " Nghe nói rằng..."
THÙ 殊 : là Đặc Thù, là đặc biệt, là ngoại lệ.
HÔN 昏 : là Hôn ám, là Âm U. CHƯỚNG 瘴 : là Chướng Khí : Khí độc trong rừng thẳm, nơi ít người lui tới. BẤT KHAI là Không Mở Ra, Không tan ra. Nên câu 6 " Lâm hôn chướng bất khai " có nghĩa : " Rừng già âm U, ngập tràn cả chướng khí chưa tan đi được ! "
LŨNG ĐẦU 隴頭 : là Gò đất cao, ở đây chỉ những ngọn núi ở xa xa. Chữ LŨNG 隴 : khi là Danh từ riêng mới có nghĩa là tên riêng của tỉnh CAM TÚC, một tỉnh ở cực tây TQ, thuộc lãnh thổ của Lưu Bị thời Tam Quốc. Đây là nơi giáp giới giữa 2 dân tộc Hán Hồ mà tôi đã đề cập trong bài LƯƠNG CHÂU TỪ của VƯƠNG HÀN.

DỊCH NGHĨA:
CẢM ĐỀ NƠI DỊCH QUÁN PHÍA BẮC CỦA ĐẠI DỮU LÃNH
Trời tháng mười miền Bắc bắt đầu se lạnh, nên chim nhạn kết đoàn bay về phương Nam. Nghe nói rằng nhạn chỉ bay đến nơi nầy rồi dừng lại ( Vì nơi đây khí hậu đã ấm áp lắm rồi !). Còn hành trình của ta thì ngoại lệ, một kẻ đi đày, nên không thể dừng lại đây được. Và không biết ngày nào mới được trở về quê cũ đây. Hôm nay dừng chân nơi quán dịch giáp giới nầy , nhìn dòng sông phẳng lặng trong lúc thủy triều đang xuống và cánh rừng mờ mịt chướng khí của buổi chiều không tan đi được ! Sáng ngày mai khi đứng trên ngọn núi nầy mà trông ngóng về quê nhà, thì chắc cũng chỉ thấy được rừng mai nở rộ phủ kín cả núi đồi mà thôi ! ( chớ đâu có thấy được quê hương đâu ! Cũng như người Việt lưu vong ở MỸ, đứng bên bờ biển Cali mà nhìn, thì chỉ thấy được biển xanh mây trắng, tuy có đẹp, nhưng làm sao thấy được đất nước Việt Nam ở bên kia bờ Thái Bình Dương xa lơ xa lắc !!! ).

Toàn bài toát lên một nỗi sầu cô độc da diết của kẻ đi đày. Chim nhạn còn có chỗ dừng chân và bay trở lại, còn mình thì không biết bao giờ mới trở lại được đây ? Cảnh trí phương nam với sông ngòi phẳng lặng đìu hiu, rừng sát thâm u chướng khí, chỉ có khí hậu là ấm áp nên ngàn mai nở rộ, rực rở cả núi đồi, nhưng cũng không làm cho tác giả cảm thấy cảnh trí tươi đẹp. Mai nở rộ chỉ làm che khuất tầm mắt của tác giả trông ngóng về quê hương mà thôi ! Toàn bài thơ không có dùng một chữ SẦU nào cả, nhưng lòng SẦU TƯ của tác giả thì man mác từ câu đầu đến câu cuối!
DIỄN NÔM:

Tháng mười xuôi nam chim nhạn,
Đến đây dừng cánh đợi về.
Riêng ta thân đày lưu lạc,
Ngày nào mới được hồi quê ?!
Sông lặng buồn trông nước xuống,
Rừng sâu lam chướng ủ ê.
Sáng ngày quê xa trông ngóng,
Núi đồi mai nở tái tê!

Lục bát:

Xuôi nam chim nhạn tháng mười,
Đến đây dừng cánh xuân tươi lại về.
Riêng ta lòng luống ủ ê,
Quê hương biết thuở nào về lại đây ?!
Sông buồn lặng lẽ nước mây,
Rừng sâu lam chướng phủ đầy lối qua.
Sáng ngày trông ngóng quê xa,
Quê xa chẳng thấy, mai hoa nở đầy !!!

Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét