Thứ Năm, 31 tháng 10, 2019

Đại Tặng Nhị Thủ - 代贈二首


Nguyên Tác:           Phiên Âm:

代贈二首                 Đại Tặng Nhị Thủ

樓上黃昏欲望休     Lâu thượng hoàng hôn dục vọng hưu
玉梯橫絕月中鈎     Ngọc thê hoành tuyệt nguyệt trung câu
芭蕉不展丁香結     Ba tiêu bất triển đinh hương kết
同向春風各自愁     Đồng hướng Đông phong các tự sầu.

東南日出照高樓     Đông nam nhật xuất chiếu cao lâu
樓上離人唱石州     Lâu thượng ly nhân xướng thạch châu
總把春山掃眉黛     Tổng bả xuân sơn tảo mi đại
不知供得幾多愁     Bất tri cung đắc kỷ đa sầu.

 李商隱                     Lý Thương Ẩn  
***
Dịch nghĩa: 

Viết Thay Lời Tặng 

Trên lầu cao từ lúc hoàng hôn, đứng trông ngóng tin vui (chờ chàng) 
Cầu ngọc [do ô thước nối nhịp trên trời] bị trăng như lưỡi liềm cắt ngang 
(Trong sân, lòng chàng như) lá chuối non chưa nhú, kết hợp với(tình nàng như) nụ đinh hương 
Cả hai cùng hướng về gió xuân mà buồn rầu. 
Mặt trời mọc hướng đông nam chiếu vào lầu cao,
Người chia biệt ly ở trên lầu hát khúc Thạch Châu.
Cô gái thường hay vẽ chân mày với phấn đen như nét đẹp của núi xuân,
Nào hay chỉ được thêm bấy nhiêu sầu? 

Ghi chú: 

Thơ của Lý Thương Ẩn có nhiều ẩn dụ và điển tích khó hiểu. 
Hai bài thơ nói lên tâm trạng thiếu nữ ngóng chờ người yêu (có lẽ đã nhiều ngày qua) trên lầu cao nên có thể nhìn cảnh vật xung quanh, nhìn trời nhìn trăng mây… Gần đến sáng khi trăng đã khuyết tà, người yêu không thấy đâu. Lòng sầu muộn nhìn xuống vườn ví người yêu như đọt chuối non chưa nhú và ví mình như các nụ búp đinh hương. Cả hai kết quyện vào nhau, cùng buồn chịu đựng cái lạnh của gió Xuân. 

Không thấy đâu nói về thời lúc của hai bài thơ. Nhưng có lẽ nàng đã chờ từ hoàng hơn đến sáng, cho đến khi mặt trời mọc chiếu vào cao lầu. Nhìn và nghe khách biệt ly hát khúc Thạch Châu (một bản nhạc phủ không phải Thạch Châu Từ đời Bắc Tống). Dù nàng có dùng phấn đen vẻ chân mày đẹp như núi Xuân, thì cũng không biết chỉ được thêm bấy nhiêu sầu muộn. 

đại tặng: lời một thiếu nữ, viết tâm tình của nàng trông nhớ tình nhân, gửi tặng chàng. 
hoàng hôn: chờ từ lúc hoàng hôn vì trai gái ít khi hẹn nhau ban ngày. 
dục vọng hưu: muốn trông ngóng tin vui. Ở đây hưu là la danh từ có nghĩa là việc tốt lành, tin vui ; không là động từ có nghĩa là nghỉ ngơi như thường được dịch. 
ngọc thê: thang ngọc, cũng chỉ nhà ngọc, nhưng ở đây nhà ngọc không nghĩa. Có thể là các từng mây từ thấp lên cao và bị liềm trăng cắt ngang. Muốn đến lầu với nàng, phải lên thang. Như một ẩn dụ, thang trống là người không đến, thang gẩy ngang là khó khăn trở ngại. Ngọc thê được xử dụng trong nhiều điển tích: 
. Giang Yêm đời Nam Triều nhà Lương viết trong bài “Xướng Phụ Tự Bi Phú”: 

Thanh đài tích hề ngân các sáp 青苔积兮银阁涩 
Võng la sanh hề ngọc thê hư     网罗生兮玉梯虚 

Rêu xanh được tích lũy trong gian hàng bạc 
Lưới được sinh ra trong thang ngọc. 

. Đỗ Mục trong bài “Quý Du”: 

Môn thông bích thụ khai kim tỏa 門通碧樹開金鎖 
Lâu đối thanh san ỷ ngọc thê       樓對青山倚玉梯 

Cánh cửa được kết nối với cây và khóa vàng 
Tòa nhà nằm trên bậc thang ngọc bích của Thanh Sơn. 

Đinh hương kết: nụ hoa tử đinh hương. Có một ý nghĩa gần như cố định với người Trung Hoa hợp với tâm sầu muộn của con người. Thơ thường sử dụng như một phép ẩn dụ cho ưu sầu kết đọng phức tạp mà không lý giải được. Nhiều thi nhân, ngoài Lý Thương Ẩn, dùng ẩn dụ này như : 

· Lý Cảnh (李璟): 

Thanh điểu bất truyện vân ngoại tín 青鸟不传云外信 
Đinh hương không kết vũ trung sầu 丁香空结雨中愁 

Chim xanh không chuyển thư tín bên ngoài mây 
Đinh hương chỉ kết nụ trong mưa sầu. 

· Ngưu Kiệu (牛峤): 

Tự tòng nam phổ biệt      自从南浦别
Sầu kiến đinh hương kết 愁见丁香结 

Tự ý rời Nam Phố 
Buồn nhìn thấy nụ đinh hương. 

· Lục Quy Mông (陸龜蒙): 

丁香                     Đinh Hương
江上悠悠人不問, Giang thượng du du nhân bất vấn
十年雲外醉中身, Thập niên vân ngoại túy trung thân
殷勤解卻丁香結, Ân cần giải khước đinh hương kết 
縱放繁枝散誕春, Túng phóng phồn chi tán đản xuân. 

Thong dong tự tại trên sông, không hỏi chuyện với người 
Mười năm thân say sưa ngoài mây trời. 
Ý tình thâm hậu, thôi đừng giải thích về nụ đinh hương 
Buông thả nhiều cành để giải buồn ngày Xuân. 

Đông phong: là gió Xuân thổi từ hướng Đông. 
đông nam nhật xuất: Lấy ý từ bài "Mạch thượng tang" trong cổ nhạc phủ: "Nhật xuất đông nam ngung hành 艷歌羅敷行” của Lục Ky đời Tây Tấn. 
thạch châu: Tên một khúc hát cổ nhạc phủ, tả nỗi mong nhớ chồng đi lính của chinh phụ. 
xuân sơn tảo mi: Vẽ lông mày như nét núi mùa xuân. Tương truyền: "Nàng Trác Văn Quân xinh đẹp, lông mày như nét núi trông từ xa". Tướng pháp gọi loại lông mày này là thanh tu mi từ tục ngữ:" Mi tự thanh sơn" 

Dịch Thơ: 
Đại Tặng 

Hoàng hôn ngóng đợi chốn thư lầu 
Thang ngọc gẩy ngang trăng móc câu 
Ôm ấp đinh hương chuối chẳng nhú 
Gió Xuân lạc hướng cũng buồn rầu. 
Vành trời chiếu sáng nắng từ lâu 
Khách tiễn ca vang khúc Thạch Châu 
Vẽ đẹp núi Xuân mày sắc đậm 
Nào hay lại được bấy nhiêu sầu. 

Phí Minh Tâm
***
Great Gift 
On the upper floor, she has been waiting the good news (him) since dusk 
The jade ladder is (empty and) broken horizontally by the crescent moon 
In the yard, the plantain (his love) has not unfurled and still wraps the clove knots (her heart) 
Both facing the Spring wind share self inflicted sadness. 
The sune rises from the southeast shining the tall buliding 
Where people are singing the Shizhou farewell 
She painted her eyebrows with black powder in the shape of Sping mountains 
Without knowing she only acquires so much more sorrow.

 Li Shangyin 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét