Đây là Thành ngữ khi nhắc đến Lư Sơn. " Lư Sơn Chân Diện Mục " là Bộ Mặt Thật Của Lư Sơn, thường được nói tắt thành Thành Ngữ 4 chữ là LƯ SƠN DIỆN MỤC 廬山面目, theo tích sau đây :
成語故事
廬山因周武王時期高人匡俗結廬而居而得名,它三面臨江, 山勢十分雄偉,山清水秀,風景奇麗。它臨江靠水,山上煙霧縹緲, 人們很難看清它的真實面貌。蘇軾寫《題西林壁》:
“橫看成嶺側成峰,
遠近高低各不同。
不識廬山真面目,
只緣身在此山中。”
THÀNH NGỮ CỐ SỰ
Tên gọi LƯ SƠN là do cao nhân Khuông Tục đời Châu Võ Vương dựng lều ( kết lư ) trên núi đó ở mà thành tên gọi . Lư Sơn 3 mặt giáp sông, thế núi vô cùng hùng vĩ, sơn thanh thủy tú, phong cảnh cực kỳ tráng lệ. Vì 3 mặt giáp với sông nước, nên trên núi luôn có mây mù vây phủ, người đời khó mà trông rõ bộ mặt thật của Lư Sơn, nên mới có Thành ngữ trên. Tô Đông Pha ( Tô Thức ) từng làm bài thơ " ĐỀ TÂY LÂM BÍCH " như sau :
Hoành khan thành lãnh trắc thành phong,
Viễn cận cao đê các bất đồng.
Bất thức Lư Sơn chân diện mục,
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung.
Chú Thích :
ĐỀ TÂY LÂM BÍCH là bài thơ của Tô Đông Pha đề lên trên vách của Chùa TÂY LÂM TỰ, nằm ở phía tây của dãi LƯ SƠN.
1. LƯ, LÔ : Ta có 7 chữ vừa đọc là LƯ vừa đọc là LÔ như sau :
*. 盧 LƯ : Họ Lư.
*. 爐,鑪 : Có bộ HỎA và bộ KIM một bên, nghĩa là cái Lò.
*. 瀘 LÔ : Có 3 chấm thủy một bên, nghĩa là Con sông LÔ.
*. 籚 LÔ : Có bộ Trúc hoặc bộ Thảo trên đầu là VI LÔ : lao sậy.Trong Truyện Kiều có câu :
VI LÔ san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
*. 鱸 LƯ : Có bộ Ngư, là tên một loại cá, thịt ăn rất ngon. Đặc biệt là loại sống ở Tùng Giang có 4 mang rất quý hiếm, mà Tào Tháo rất thích ăn.( Xem Tam Quốc đoạn TẢ TỪ ).
*. 驢 LƯ : Có bộ Mã, là con Lừa.
*. 廬 LƯ : Là Nhà cất sơ sài. THẢO LƯ : là Nhà cỏ. Đây là chữ LƯ trong bài thơ, do tích cao nhân Khuông Tục đời Châu Võ Vương kết nhà tranh trên núi đó ở mà thành tên LƯ SƠN. Trong Truyện Kiều cũng có câu :
Gặp nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về THẢO LƯ.
2. HOÀNH , TRẮC :Hoành là Ngang, Trắc là mặt bên, mặt xéo.
3. LÃNH, PHONG : Lãnh là Đỉnh núi. Phong là Ngọn núi.
4. VIỄN, CẬN, CAO, ĐÊ : là Xa, Gần, Cao, Thấp.
5. CHỈ DUYÊN : Chữ Duyên ở đây đồng nghĩa với chữ NGUYÊN là Nguyên do, là Duyên cớ. Nên CHỈ DUYÊN có nghĩa giản dị là : Chỉ Vì .
Diễn nôm :
Trông ngang thành đĩnh, xéo thành non,
Cao thấp gần xa cũng mấy hòn.
Mặt thật Lư Sơn ai biết được,
Nào hay thân đã ở Lư Sơn !
Trong 100 bài Ngũ Ngôn Tuyệt Cú " Giang Hành Vô Đề " của TIỀN KHỞI đời Đường, có một bài nhắc đến Lư Sơn rất nổi tiếng còn truyền tụng đến hiện nay. Xin giới thiệu Tiền Khởi và bài thơ sau đây:
Tiền Khởi ( 722-780 ). Thi nhân đời Đường, là một trong " Đại Lịch Thập Tài Tử ". Tự là Trọng Văn. Người huyện Ngô Hưng ( nay thuộc tỉnh Chiết Giang ). Năm Thiên Bảo thứ 9, ứng thi Tiến Sĩ, nổi tiếng với bài " Tỉnh Thí Tương Linh Cổ Sắc " nhất là 2 câu cuối : "Khúc chung nhân bất kiến, Giang thượng sổ phong thanh ", được truyền tụng là tuyệt cú. Giữa năm Càn Nguyên, nhậm chức Huyện Úy Huyện Lam Điền gần Trường An, thường qua lại và đối đáp thơ với Vương Duy, làm quan đến chức Khảo Công Lang Trung, nên người đời sau thường gọi ông là Tiền Khảo Công.
江行無題 GIANG HÀNH VÔ ĐỀ
咫尺愁風雨, Chỉ xích sầu phong vũ,
匡廬不可登。 Khuông Lư bất khả đăng.
秖疑雲霧窟, Chỉ nghi vân vụ quật,
猶有六朝僧。 Do hữu Lục Triều tăng.
錢起 Tiền Khởi.
Chú Thích :
1. CHỈ XÍCH : Chỉ là 8 tấc, Xích là 1 thước. CHỈ XÍCH đi chung có nghĩa là : Trong gang tất. Ta có Thành ngữ CHỈ XÍCH THIÊN NHAI 咫尺天涯, có nghĩa : Gần nhau trong gang tấc mà tưởng chừng xa cách tận chân trời. Trong Truyện Kiều có câu :
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong GANG TẤC lại gấp mười quan san.
2. KHUÔNG LƯ : 庐山,山体呈椭圆形,典型的地垒式长段块山约25公里, 宽约10公里,绵延的90余座山峰,犹如九叠屏风, 屏蔽着江西的北大门。以雄、奇、险、秀闻名于世,素有“ 匡庐奇秀甲天下”之美誉,Một tên gọi khác của Lư Sơn. Dãy núi có hình bầu dục dài khoảng 25 km, rộng 10 km, chập chùng nối tiếp nhau khoảng hơn 90 ngọn núi, giống như một bình phong 9 tầng, che lấp cả Bắc Đại Môn của tỉnh Giang Tây. Nổi tiếng với 4 tiêu chuẩn HÙNG, KỲ, HIỂM, TÚ.( Hùng vĩ, Kỳ bí, Hiểm trở, Tú lệ ), được xưng tụng với mỹ danh : " Khuông Lư kỳ tú giáp thiên hạ " , là nơi nghỉ mát lý tưởng cho mùa hè, nên rất được du khách trong ngoài nước hâm mộ.
3. VÂN VỤ QUẬT : Vân là mây, Vụ là Mù Sương, Quật là Hang Động. VÂN VỤ QUẬT là Hang động luôn luôn được mây mù che phủ.
4. LỤC TRIỀU : Là thời đại loạn lạc trước nhà Đường gồm có các nước : Đông Tấn, Tây Tấn ( có sách cho là nước Ngô ), Tống, Tề, Lương và nước Trần.( Nổi tiếng với Trần Hậu Chủ và khúc hát Hậu Đình Hoa ).
Dịch Nghĩa :
Chỉ cách nhau trong gang tấc ( ý chỉ rất gần ), mà lại phải buồn vì mưa gió nên không thể leo lên được tận trên ngọn Khuông Lư. Ta lại càng ngờ ngợ nghi rằng, biết đâu trong những hang động luôn luôn bị mây mù che phủ kia, còn có những ông sư già đi tu hồi thuở Lục Triều !.
Khéo ngớ ngẩn, nhưng chính sự ngớ ngẩn nầy của Tiền Khởi càng làm cho Lư Sơn có vẻ kỳ bí hấp dẫn hơn lên !
Diễn Nôm :
Gang tấc sầu mưa gió,
Khuông Lư chẳng thể leo.
Nghi trong mây mù động,
Còn có sư Lục Triều !.
Lục bát :
Buồn vì gang tấc gió mưa,
Chẳng lên đặng ngọn Khuông Lư sớm chiều.
Nghi trong hang động mây nhiều,
Lão tăng hồi thuở Lục Triều còn tu!
Nói thêm với Thầy Phan Huy Viên CHÂN DIỆN MỤC :
Thưa Thầy,Hồi mới về sinh hoạt với trường nhà, em cứ tưởng là Thầy họ LƯ tên SƠN, vì thành ngữ
" Lư Sơn Chân Diện Mục" rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong văn chương Xưa và Nay, ai dè đâu Thầy lại còn là TÂY ĐÔ CUỒNG SĨ nữa, em chịu thua Thầy luôn!
Đỗ Chiêu Đức.
真的很有意思,谢谢你!
Trả lờiXóa