Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2025

Hai Tiếng Đàn: Tỳ Bà Hành 琵琶行 & Dạ Tranh 夜箏 - Bạch Cư Dị (Chúc Mừng Sinh Nhật 91 Ông Cò)

(Chúc Mừng Sinh Nhật 91 Ông Cò)

Hai Tiếng Đàn: Tỳ Bà Hành 琵琶行 - Dạ Tranh 夜箏 - Bạch Cư Dị

Tiếng đàn tỳ bà của Bạch Cư Dị đã làm thế gian say mê trong hơn một thiên kỷ. Ông tả tiếng đàn với kỹ thuật của một chuyên gia âm thanh. Âm nhạc trong thơ ông tuôn ra từ những ngón tay điêu luyện của nghệ nhân cho nên nghe dạt dào, thánh thót, du dương, ngọt ngào... Độc gỉả không những thưởng thức được tiếng đàn qua lối kể chuyện mà còn nghe rõ từng âm thanh trong thuật so sánh của ông. Người ta nghe thấy tiếng mưa rơi xầm xập, tiếng thì thào niềm riêng, tiếng hạt châu trong mâm vàng, tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng gươm đao xoang xoảng, tiếng chim oanh chiêm chiếp, tiếng nước chảy róc rách........... Cuối bài nhạc, người ta nghe được một hoà âm do 5 ngón tay của nghệ nhân phẩy một lượt trên cả 8 dây đàn. Khi đàn ngừng người ta còn nghe được một thứ tiếng rất đặc biệt: đó là tiếng vô thanh của sự tĩnh lặng. Tóm lại, Bạch Cư Dị mời độc giả ngồi với ông để cùng nghe nghệ nhân chơi đàn. Đây không phải là bài thơ tả tiếng tỳ bà mà là bài nhạc độc tấu tỳ bà mà độc giả cùng ngồi nghe với tác giả.
- Tiếng đàn tranh trong bài Dạ Tranh còn ngụ ý mối tri âm giữa ông và người cô phụ gẩy đàn tỳ bà tại bến Tầm Dương. 

 Nguyên tác         Dịch âm

琵琶行                Tỳ Bà Hành


潯陽江頭夜送客 Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
楓葉荻花秋瑟瑟 Phong diệp lô hoa thu sắt sắt
主人下馬客在船 Chủ nhân hạ mã khách tại thuyền
舉酒欲飲無管弦 Cử tửu dục ẩm vô quản huyền

醉不成歡慘將別 Túy bất thành hoan thảm tương biệt
別時茫茫江浸月 Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
忽聞水上琵琶聲 Hốt văn thủy thượng tì bà thanh
主人忘歸客不發 Chủ nhân vong qui khách bất phát

尋聲暗問彈者誰 Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy
琵琶聲停欲語遲 Tì bà thanh đình dục ngữ trì
移船相近邀相見 Di thuyền tương cận yêu tương kiến
添酒回燈重開宴 Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến

千呼萬喚始出來 Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
猶抱琵琶半遮面 Do bão tì bà bán già diện
轉軸撥弦三兩聲 Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
未成曲調先有情 Vị thành khúc điệu tiên hữu tình

弦弦掩抑聲聲思 Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ
似訴生平不得志 Tự tố bình sinh bất đắc chí
低眉信手續續彈 Đê mi tín thủ tục tục đàn
說盡心中無限事 Thuyết tận tâm trung vô hạn tự

輕攏慢撚抹復挑 Khinh lung mạn niến mạt phục khiêu
初為霓裳後六么 Sơ vi Nghê Thường hậu Lục Yêu
大弦嘈嘈如急雨 Đại huyền tào tào như cấp vũ
小弦切切如私語 Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ

嘈嘈切切錯雜彈 Tào tào thiết thiết thác tạp đàn
大珠小珠落玉盤 Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
閒關鶯語花底滑 Nhàn quan oanh ngữ hoa đề hoạt
幽咽流景水下灘 U-yết tuyền lưu thủy hạ than

水泉冷澀弦凝絕 Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
凝絕不通聲漸歇 Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
別有幽愁暗恨生 Biệt hữu u sầu ám hận sinh
此時無聲勝有聲 Thử thời vô thanh thắng hữu thanh

銀瓶乍破水漿迸 Ngân bình sạ phá thủy tương bính
鐵騎突出刀鎗鳴 Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
曲終收撥當心畫 Khúc trung trừu bát đương tâm hoạch
四弦一聲如裂帛 Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch

東船西舫悄無言 Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
惟見江心秋月白 Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
沈吟放撥插弦中 Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
整頓衣裳起斂容 Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung

自言本是京城女 Tự ngôn:” Bản thị kinh thành nữ
家在蝦蟆陵下住 Gia tại Hà Mô lăng hạ trú
十三學得琵琶成 Thập tam học đắc tì bà thanh
名屬教坊第一部 Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ

曲罷曾教善才服 Khúc bãi thường giao thiện tài phục
妝成每被秋娘妒 Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
五陵年少爭纏頭 Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
一曲紅綃不知數 Nhất khúc hồng tiêu bất tri số

鈿頭銀篦擊節碎 Tiền đầu ngân bề kích tiết toái
血色羅裙翻酒污 Huyết sắc la quần phiên tửu ố
今年歡笑復明年 Kim niên hoan tiếu phục minh niên
秋月春風等閒度 Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ

弟走從軍阿姨死 Đệ tẩu tòng quân a di tử
暮去朝來顏色故 Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố
門前冷落車馬稀 Môn tiền lãnh lạc xa mã hi
老大嫁作商人婦 Lão đại giá tác thương nhân phụ

商人重利輕別離 Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly
前月浮梁買茶去 Tiền nguyệt Phù lương mãi trà khứ
去來江口守空船 Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền
繞船明月江水寒 Nhiễu thuyền minh nguyệt giang thủy hàn

夜深忽夢少年事 Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
夢啼妝淚紅闌干 Mộng đề trang lệ hồng lan can”
我聞琵琶已歎息 Ngã văn tì bà dĩ thán tức
又聞此語重唧唧 Hựu văn thử ngữ trùng tức tức

同是天涯淪落人 Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
相逢何必曾相識 Tương phùng hà tất tằng tương thức
我從去年辭帝京 Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
謫居臥病潯陽城 Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành

潯陽地僻無音樂 Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc
終歲不聞絲竹聲 Chung tuế bất văn ti trúc thanh
往近湓城地底濕 Trú cận Bồn thành địa đê thấp
黃蘆苦竹繞宅生 Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh

其間旦暮聞何物 Kỷ gian nhật mộ văn hà vật?
杜鵑啼血猿哀鳴 Đỗ Quyên đề huyết viên ai minh
春江花朝秋月夜 Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
往往取酒還獨傾 Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh

豈無山歌與村笛 Khởi vô sơn ca dữ thôn địch?
嘔啞嘲哳難為聽 Âu nha trù chiết nan vi thinh
今夜聞君琵琶語 Kim dạ văn quân tì bà ngữ
如聽仙樂耳暫明 Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh

莫辭更坐彈一曲 Mạc từ cánh họa đàn nhất khúc
為君翻作琵琶行 Vị quân phiên tác Tỳ Bà Hành
感我此言良久立 Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
卻坐促弦弦轉急 Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp

淒淒不似向前聲 Thê thê bất tự hướng tiền thanh
滿座重聞皆掩泣 Mãn tọa văn chi giai yểm khấp
座中泣下誰最多 Tựu trung khấp hạ thùy tối đa?
江州司馬青衫濕 Giang Châu tư mã thanh sam thấp

Chú giải:

Tỳ Bà Hành: tên khúc hát.

Trong bài tựa, Bạch Cư Dị viết rằng: “năm Nguyên Hòa thứ 10 ta bị giáng làm chức tư mã quận Cửu giang, mùa thu năm sau đi tiễn khách ở bến Bồn, nửa đêm nghe tiếng đàn tì bà ở một con thuyền, tiếng nghe lanh lảnh như tiếng đàn ở kinh đô, hỏi ra mới biết người đàn là một ca nữ đất Trường An, thường đã học đàn ở hai thiện tài là họ Mạc và họ Tào. Người đàn bà này nay đã già, mắt đã kém, phải gửi thân làm vợ một người lái buôn. Ta liền bảo đặt rượu và bảo đánh vài khúc; người ấy buồn bã tự kể cuộc vui chơi lúc thiếu thời, nay phải lưu lạc, tiều tụy ở nơi giang hồ. Ta ra làm quan ở ngoài đã hai năm, nỗi mình vừa hơi khuây, đêm nay cảm lời nói của nàng, lại nghĩ tới sự bi tráng mới làm ra bài trường ca này đặt tên là Tì bà hành.

Tầm Dương: tên sông tại huyện Cửu giang, tỉnh Giang tây. Bát huyền: lựa dây. Yểm ức: u uất ở bên trong. Đề mi: cúi mày. Khinh lung: nắn nhẹ. Mạn niến: vuốt chậm. Mạt phục khiêu: rồi lại gảy lên. Nghê Thường, Lục Yêu: tên 2 khúc nhạc cổ. Tào tào: tiếng gấp rút ồn ào. Thiết thiết: tiếng nhỏ bé chậm rãi. Đại chu, tiểu chu: hạt minh châu lớn nhỏ, ở đây ví tiếng đàn nhuần nhã, tròn trịa. Gian quan: tiếng ríu rít của chim oanh. Than: cái ghềnh. Xạ phá: bị vỡ bất ngờ. Bính: tung tóe. Thu bát: thu vuốt lại. Đương tâm hoạch: khêu vạch, chia cắt lòng dân, đánh xuống giữa đàn. Liễm dung: lấy lại vẻ mặt. Hà mô lăng: cồn Hà mô, tỉnh Thiểm tây. Giáo phường: giữa thời Đường khai nguyên ở tả hữu kinh đô có đặt giáo phường cho các ca nữ ở đó. Kinh đô: chỉ Trường An. Thiện tài: tên gọi nhạc sư đời Đường. Thu nương: thiếp của Lý Kỳ đời Đường, có tài thơ, tài đàn, tác giả bài thơ Kim lũ y, đây chỉ người đàn bà đẹp đã lớn tuổi. Đất Ngũ lăng: miền đất gần kinh đô có 5 lăng, nơi những người hào phú và trẻ tuổi hào hiệp trú ở đó. Triền đầu: khăn đỏ, thuở xưa dùng làm vật để ban thưởng cho những người ca vũ. Hồng tiêu: lụa màu hồng. Điền: cây trâm vàng. Bì: cái lược. Tiết toái: vỡ tung ra. Linh lạc: tiêu điều. Phù Lương: tên một huyện có trà ngon thuộc tỉnh Giang tây. Trang lệ: khóc trong lúc điểm trang. Lan can: cái bao lan, cái vành mắt, lại có nghĩa làn ngang dọc, tơi bời. Bồn thành: tức là Tầm Dương. Vãng vãng: thỉnh thoảng. Âu nha: tiếng bập bẹ, học nói của trẻ con. Triều triết: tiếng kêu lắp bắp của chim. Lương cữu lập: đứng lặng hồi lâu. Hướng tiền thanh: thanh điệu lúc trước. Giang châu tư mã: chức tư mã quận Giang châu, chức của Bạch Cư Dị.

Dịch thơ

Khúc Ca Tỳ Bà


Bến Tầm Dương đêm đưa chân khách
Ngàn phong lau luồn lạch gió thu
Ta xuống ngựa khách ngừng đò
Tiệc không đàn sáo rượu hờ trên môi
Giờ phân ly sao vui để uống?
Lúc chia tay trăng sáng đầy sông
Tỳ bà văng vẳng giữa dòng
Khách chưa vội trẩy ta không muốn rời
Dò tiếng hỏi ai chơi đàn đó?
Tỳ bà ngưng thuyền nọ ngại ngần
Cho thuyền chèo sát lại gần
Khêu đèn thêm rượu tiếp tân chào mời
Mời mọc mãi khiến người chọn lựa

Ôm tỳ bà che nửa mặt hoa
Vặn đàn thử bốn dây tơ
Dẫu chưa nên khúc đã ưa lòng người
Ý thanh tao nhạc thời ẩn ức
Dường phô bày buồn bực bấy nay
Vờn năm ngón, nhíu chân mày
Giãi bày tâm sự tám dây ngàn hàng
Dây vuốt nhẹ tiếng đàn dìu dặt
Thoạt Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu
Dây to xầm xập mưa rào
Nỉ non dây nhỏ thì thào niềm riêng
Đang nỉ non hòa thêm xầm xập
Như hạt châu rơi ngập mâm vàng
Như oanh ríu rít cành lan
Như ghềnh đá chảy suối tràn dòng xuôi
Suối ngưng đọng đàn chơi ngừng bặt
Đàn nghỉ ngơi tiếng nhạc cũng im
Nỗi niềm u uất vươn lên
Âm vang so với im lìm còn thua
Bình bạc bể, nước khua lai láng
Vó câu ròn sang sảng gươm đao
Bốn dây móng phẩy mạnh vào
Tiếng như xé lụa. Dạt dào. Đàn xong.
Thuyền tứ phía tuyệt không tiếng nói
Giữa dòng sông trăng rọi trắng ngà

Móng đàn cài lược dây tơ
Chỉnh y. Khép nép. Đứng chờ nghiêm trang:
“Xưa kinh đô vốn hàng dân nữ
Cồn Hà mô cư ngụ cửa nhà
Mười ba tuổi thạo tì bà
Giáo phường đệ nhất tài ba hơn người
Kẻ sành điệu hết lời thán phục
Ả Thu Nương ghen tức điểm trang
Ngũ Lăng trai trẻ trao khăn
Mỗi khi tấu nhạc hồng khăn đầy nhà
Lược trâm vàng gẫy pha nhịp gõ
Rượu thưởng tài hoen ố quần hồng
Tháng năm vui thú mặc lòng
Trăng thu lần lữa xuân nồng trôi qua
Em tòng quân, dì đà khuất núi
Nhan sắc theo sớm tối tàn phai

Ngựa xe thưa thớt bên ngoài
Tuổi già kết tóc với người thương nhân
Chồng ham lợi khinh phần ly biệt
Nẻo Phù Lương tháng trước buôn trà
Thuyền không thiếp đậu ven bờ
Quanh thuyền trăng giãi sông xưa lạnh lùng
Đêm thanh vắng mộng vùng thơ ấu
Lệ trong mơ lăn xấu má hồng”
Tỳ bà nghe đã mủi lòng
Lại thêm nàng kể sao không ngậm ngùi?
Cùng một lứa chân trời lưu lạc
Gặp nhau đâu cần trước quen nhau
Rời kinh năm ngoái dãi dầu

Tầm Dương đất trích bệnh lâu chưa lành
Nẻo Tầm Dương vắng tanh âm nhạc
Suốt quanh năm đàn hát chẳng nghe
Bồn thành ẩm thấp nặng nề
Quanh nhà mọc những lau tre cỗi cằn
Từ sáng chiều nghe toàn âm lậu
Vượn hú sầu rướm máu quốc kêu
Sông xuân hoa sớm trăng chiều
Một thân. Một hũ. Một điều: ta say.
Rừng có nhạc thôn này cũng có
Tiếng líu lo làm khó tai ta
Đêm nay nghe khúc tì bà
Tâm hồn sảng khoái tưởng là nhạc tiên
Khoan từ giã đàn thêm khúc nữa
Tỳ Bà Hành soạn sửa vì nàng
Vâng lời. Do dự. Nhặt khoan
Tám dây rung động tiếng đàn thăng hoa
Nhạc sầu thảm không như khúc trước
Khách trong thuyền sướt mướt lệ sa
Lệ ai suối chảy chan hòa?
Giang Châu tư mã đẫm tà áo xanh


Lời bàn của Con Cò:

Để dễ biểu hiện nguồn thơ của nguyên bản tôi luôn luôn dùng nguyên thể thơ để dịch. Nhưng với bài này (và vài bài nữa như bài Trường Hận Ca), nếu dùng nguyên thể thất ngôn trường thiên thì rất khó dịch cái réo rắt của tiếng đàn và nỗi lòng thầm kín của người trong cuộc. Thể song thất lục bát là thể lý tưởng để mô tả những khó khăn đó. Chỉ có một khó khăn nho nhỏ: tuy câu bát cho thêm một chữ (so với câu thất của nguyên bản), nhưng câu lục lại ít bớt một chữ.

Tôi đã hết sức cố gắng để khắc phục trở ngại đó. Tỷ dụ câu “Thập tam học đắc tì bà thanh” nghĩa là mười ba tuổi đã học được trọn vẹn nghệ thuật tấu tiếng đàn tì bà. Tôi đã diễn tả ý đó trong sáu chữ: Mười ba tuổi thạo tì bà. Một tiền bối đã dịch là: “Học đàn từ thuở mười ba”. Câu của ông phạm hai lỗi: 1/ dịch sai. Nghệ sĩ này đã học thành thạo (đắc) ở tuổi mười ba chứ không phải bắt đầu học ở tuổi đó. 2/ thiếu ý (không specific), cô học đàn tì bà chứ không học thứ đàn nào khác.

Tôi đã tránh được vài lỗi ngây ngô (giống như chữ mùi trong câu “Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh) của vị tiền bối đó. Thỉnh thoảng tôi cũng phạm vài lỗi ép vận nhưng không phạm lỗi lạc vận (rất kỵ trong song thất lục bát hoặc lục bát).

Sau đây là dăm tiểu xảo đã được tôi xử dụng để tô điểm cho bài dịch:

1/ Tám dây móng phẩy mạnh vào (rất gợi hình lúc nghệ nhân đánh cả 8 dây để chấm dứt bài nhạc)
Tiếng như xé lụa. Dạt dào. Đàn xong. (dùng 3 dấu chấm, ngắt câu bát thành ba câu nhỏ để diễn đạt những biến chuyển dồn dập mà tác giả đưa ra trong một câu thất)
2/ Vâng lời. Do dự. Nhặt khoan (cùng một dụng ý như trên)
3/ Vượn hú sầu rướm máu cuốc kêu. (dịch trọn vẹn được nỗi cô đơn của Bạch Cư Dị lúc bị biếm)
4/ Móng đàn cài lược dây tơ (động tác lúc nghệ nhân ngừng chơi)

Tuy nhiên, cũng có một vài khuyết điểm khó tránh: dịch một bài gần một trăm câu mà trước đó đã có cả chục danh nhân dịch thì khó mà tránh được dăm chỗ giống nhau.. Xin được thông cảm.

Con Cò

***
Góp Ý của Hoàng Xuân Thảo:

Cách đây có lẽ khoảng ba năm, tình cờ một hôm đọc trên diễn đàn y khoa được đọc bài của Nguyễn Thượng Vũ giới thiệu bài dịch Tỳ Bà Hành cuả Con Cò Nguyễn Văn Bảo thế là tôi liên lạc với BS Bảo và hai người nối nhịp cầu thơ Đường từ đó cho tới nay, hễ ai dịch bài thơ nào thì lạị gửi cho người kia xem để góp ý rất là thú vị, tuy dịch xong là để đấy mà thôi chứ chưa có ý định gửi đăng ở đâu cả. Tôi được đọc bài dịch Tỳ Bà Hành của anh Bảo, nhớ lại thời xưa rất thích bài này qua lời giảng của các thầy học từ Trung học tới Đại học. Được BS Bảo khuyến khích tôi cũng liều dịch thử sau đó gửi cho anh Bảo cùng Lai Mạnh Cường, Huỳnh Minh Giám, Hà Ngọc Thuần được các vị này phê bình và bổ khuyết cuối cùng hoàn thành được bản dịch gửi các bạn đọc hôm nay. Bài thơ dịch này thật ra là một bài dịch tập thể với sự góp ý chung cuả tất cả các bằng hữu tôi kể trên. Đặc biệt là bài dịch vẫn giữ nguyên thể thơ cổ phong thất ngôn và giữ nguyên vị trí các vần bằng trắc cuối mỗi câu. Xin mời...

Tỳ Bà Hành

Tác giả: Bạch Cư Dị                          Dịch: Hoàng Xuân Thảo


Tầm Dương giang đầu dạ tống khách Bến Tầm Dương đêm khuya tiễn khách
Phong diệp dịch hoa thu sắt sắt           Phong lau hiu hắt, thu se sắt
Chủ nhân hạ mã khách tại thuyền       Chủ nhân xuống ngựa, khách dưới đò
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền             Rượu chuốc muốn uống không trúc tơ

Túy bất thành hoan, thảm tương biệt     Say vẫn chẳng vui, sầu tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt Mênh mang như trăng loang nước biếc
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh           Chợt nghe sóng vọng tiếng tỳ bà
Chủ nhân vong qui, khách bất phát       Chủ nhân quên về, khách luyến tiếc

Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy?      Dò nghe thầm hỏi ai nắn tơ?
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì             Lời chưa cất, đàn lặng như tờ
Di thuyền tương cận yêu tương kiến Chèo thuyền kề sát xin tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến   Thêm rượu khêu đèn lại khai yến

Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai              Năn nỉ hết lời mới thấy nàng
Do bão tỳ bà bán già diện                        Ôm đàn, nửa mặt hoa che kín
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh  Vặn trục, so dây, dăm tiếng ngân
Vị thành khúc điệu, tiên hữu tình             Chưa ra khúc điệu, tình đã sinh

Huyền huyền yểm ức, thanh thanh tứ      Dây dây ray rứt, tiếng tơ tỏ
Tự tố bình sinh bất đắc chí                      Thổ lộ bình sinh không toại chí
Đê mi tín thủ tục tục đàn                         Cúi mày thuận tay tiếp tục đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự               Kể lể nỗi lòng muôn vạn sự

Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu Buông bắt vuốt xoa thảy dặt dìu
Sơ vi " Nghê thường" hậu "Lục yêu"   Thoạt Nghê Thường, sau tiếp Lục Yêu
Đại huyền tào tào như cấp vũ               Dây to ào ào mưa đổ siết
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ          Dây nhỏ thủ thỉ niềm riêng biệt

Tào tào thiết thiết thác tạp đàn          Ào ào, thủ thỉ, nhặt xen khoan
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn        Hạt châu loảng xoảng rớt mâm vàng
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt       Lẩn trong hoa, líu lo oanh hót
U yết tuyền lưu thủy hạ than              Đổ xuống ghềnh, róc rách suối vang

Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt Suối lạnh im lìm, dây tơ ngắt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết      Dây tơ ngắt, tiếng đàn im bặt
Biệt hữu u sầu ám hận sinh                     Riêng mối u sầu, nỗi hận dâng
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh         Đàn câm ý nhị lấn đàn ngân.

Ngân bình xạ phá thủy tương bỉnh        Bình bạc vỡ, nước tuôn tua túa
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh       Ngựa sắt xông, xô xát đao thương
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch   Khúc cùng, thu móng phẩy ngay giữa
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch        Bốn dây một tiếng như xé lụa.

Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn    Thuyền bè đông tây lặng như tờ
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch     Duy giữa lòng sông trăng thu tỏ
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung Trầm ngâm cài móng giữa dây tơ
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung      Chỉnh đốn xiêm y, khép nép thưa

Tự ngôn: " Bản thị kinh thành nữ          Rằng: “Xưa vốn xuất thân ca nữ
Gia tại Hà mô lăng hạ trú                      Tại kinh, Hà-mô-lăng cư trú
Thập tam học đắc tỳ bà thành                Mười ba đã thành thạo tỳ bà
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ      Ghi danh Giáo phường đệ nhất bộ

Khúc bãi tằng giao Thiện tài phục      Khúc nhạc dứt, thầy đờn thán phục
Trang thành mỗi bị Thu nương đố      Điểm trang xong, Thu Nương ghen tức
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu   Trai trẻ Ngũ Lăng tranh tặng khăn
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số             Mỗi khúc nhiễu điều nhiều hết mức

Điền đầu ngân tì kích tiết toái              Lược bạc trâm vàng gẫy lúc gõ
Huyết sắc la quần phiên tửu ố              Quần hồng, rượu thưởng rây hoen ố
Kim niên hoan tiếu phục minh niên     Năm năm cười cợt miết truy hoan
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ Trăng gió thu xuân trôi êm ả

Đệ tẩu tùng quân, a di tử                 Em phải tòng quân, dì quá cố
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố           Đêm qua, sáng lại sắc tàn tạ
Môn tiền lănh lạc xa mã hi              Cổng ngoài thưa thớt dấu ngựa xe
Lão đại giá tác thương nhân phụ     Luống tuổi lấy lái buôn nương tựa

Thương nhân trọng lợi, khinh biệt ly          Lái buôn hám lợi, vắng mặt thường
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ           Phù Lương mua trà, rông tháng trước
Khứ lại giang khẩu thủ không thuyền         Đành về bến nước giữ thuyền không
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn  Quanh thuyền trăng tỏ, nước lạnh lùng

Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự   Đêm sâu chợt mộng thời xuân sắc
Mộng đề trang lệ hồng lan can    “Lệ rơi rơi phai lạt phấn son”.
Ngă văn tỳ bà dĩ thán tức              Ta nghe đàn đang sầu man mác
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức      Lại nàng kể càng thêm chất ngất

Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân         Cùng cảnh chân trời kẻ tha phương
Tương phùng hà tất tằng tương thức     Gặp nhau hà tất quen nhau trước
"Ngã tằng khứ niên từ đế kinh             “Ta từ năm ngoái biệt kinh thành
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành   Đất trích bệnh nằm tại Tầm Dương

Tầm dương địa tịch vô âm nhạc       Tầm Dương heo hút tìm đâu nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh        Năm suốt chẳng nghe tiếng sáo đàn
Trú cận Bồn giang địa đê thấp          Trú cạnh Bồn Giang đất ẩm thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh    Lau vàng trúc cỗi thềm mọc quanh

Kỳ gian đán mộ văn hà vật                 Sớm tối nghe tiếng chi chi vẳng
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh         Cuốc kêu rướm máu, vượn hú than
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ    Ngắm trăng thu tối, hoa xuân sáng
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh  Rượu chuốc nghiêng ly thường một thân

Khởi vô sơn ca dữ thôn địch               Sáo thôn, ca núi từng vang vọng
Ẩu á trào triết nan vi thính                  Hiềm vì hỗn tạp tai nghe chướng
Kim dạ văn quân Tỳ bà ngữ                Đêm nay nghe nàng đàn trầm bổng
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh      Như thể nhạc tiên rót vào tai

Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc                Xin khoan ngồi lại đàn một khúc
Vị quân phiên tác tỳ bà hành"                  Vì nàng ta soạn bài hành này”
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập             Cảm lời nàng tần ngần dừng bước
Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp  Lại ngồi đàn gẩy, khoan sang nhặt

Thê thê bất tự hướng tiền thanh            Điệu giờ nghe khác, chĩu thê lương
Măn tọa trùng văn giai yểm khấp         Người người bưng mặt che mắt ướt
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa?             Thấm chi lệ đẫm vạt áo xanh
Giang châu tư mã thanh sam thấp!       Tư mã Giang Châu khóc sướt mướt.

Bạch Cư Dị                                            Hoàng Xuân Thảo

Cước chú:

Năm 815, Bạch Cư Dị đang nhiệm chức Đông cung Tả thiện Đại phu, dạy học thái tử thì bị giáng chức và biếm ra làm Tư Mã Giang Châu, nay thuộc huyện Cửu Giang, Giang Tây. Tư Mã là một chức quan cấp thấp, phụ tá cho Ngự sử và lễ phục là áo xanh.

Thể thơ dịch: Bài thơ dịch giữ nguyên thể hành, một hình thức của cổ phong và cách gieo vần bằng trắc cuối câu thơ để giữ được nguyên vẹn tiết tấu của thơ và âm điệu của lời thơ.

Tựa của Bạch Cư Dị:

“Năm thứ 10 niên hiệu Nguyên Hoà, đời Đường Hiến Tông, tôi bị biếm ra làm Tư mã ở Cửu Giang. Mùa thu năm sau, đi tiễn khách ở bến sông Bồn, nửa đêm nghe tiếng đàn tỳ bà trên một con thuyền, tiếng nghe lanh lảnh như tiếng đàn ở kinh đô. Hỏi ra mới biết là một ca nữ ở Trường An, đã từng học tỳ bà với hai thiện tài họ Mục và họ Tào. Người ấy nay tuổi đã cao, sắc đã kém, phải gửi thân vào một người lái buôn. Tôi liền bảo đặt rượu và xin nàng gảy vài khúc. Gảy xong mấy khúc người ấy buồn bã kể lại cuộc đời lúc thiếu thời, nay phiêu linh, tiều tụy ở chốn sông hồ. Tôi ra làm quan ở ngoài đã hai năm, nỗi mình vừa hơi khuây, nay cảm động vì lời nói của nàng, lại nghĩ đến sự trích giáng nên làm bài trường ca này để tặng” – Trần Trọng San dịch.

TỰA của Hoàng Xuân Thảo:

Bạch Cư Dị viết tựa cho bài thơ Tỳ bà hành, tôi cũng bắt chước ông viết tựa cho bài thơ dịch của tôi vì dịch thơ cũng khổ công nhất là những câu thơ ông miêu tả tiếng đàn tỳ bà của người ca nữ. Tôi biết ông và bài thơ của ông từ thuở tóc còn xanh, vào khoảng giữa thập niên 1940 qua lời giảng bình của thầy học Hoàng Ngọc Phách khi tôi còn mài đũng quần tại trường Trung học Hàn Thuyên, Bắc Ninh và thầy Trần Văn Giáp, một chuyên viên tại viện Bác Cổ Viễn Đông, tại trường Chu Văn An. Đầu thập niên 1950, tôi lại hân hạnh được biết ông lần nữa và lần này thì được các giáo sư trường Đại học Văn Khoa, Hà Nội giới thiệu ông kỹ càng với nhiều chi tiết về cuộc đời và văn thơ của ông. Ông và thơ ông đã quyến rũ tôi và tôi tưởng tôi sẽ tiếp tục giới thiệu ông với các thế hệ tiếp nối nhưng vì trưởng thành trong thời kỳ nhiễu nhương khiến bao “Chàng trẻ tuổi vốn giòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung” nên tôi bỏ văn theo võ, gia nhập binh chủng quân y, tới khi y công đã tới mức có thể giúp đời, cứu người tôi được các y sư cho phép hạ sơn đi hành hiệp với một ba-lô đựng đầy các cẩm nang. Sau khi hành quân ngang dọc một thời gian, tôi được về đồn trú tại thủ đô. Thời đó tôi vốn là quân y hiện dịch, không được phép hành nghề tư, nên những lúc rảnh rỗi tôi lại tìm ông tại trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn và biết rõ ông hơn qua các giáo sư như Linh mục Thanh Lãng, Nghiêm Toản, Nguyễn Đăng Thục, cùng nhiều các giảng sư đã nổi tiếng trong làng văn kết quả là tôi được cấp mảnh bằng Cử nhân Văn khoa trong đó có cả chứng chỉ Nhân Chủng học mà trưởng ban là Giáo sư BS Trần Anh, một đàn anh cũ của tôi từ hồi còn tại trường Quân Y Hà Nội. Tôi mê thơ ông hơn và trong những bài thơ tôi lãnh giáo, tôi đã cả gan dịch thơ ông, dịch thơ ông vì thấy hay, thấy khoái, thấy “tự sướng” chứ không dám phổ biến cho ai đọc cả nhưng số phận của tôi lúc đó không giống của ông dù tôi đã trải qua một cuộc khói lửa và một cuộc di cư từ Bắc vô Nam. 

Mãi về sau này, sau 1975, qua thêm một cuộc bể dâu thì tôi bỗng thành kẻ chân trời lận đận khiến bỗng dưng tôi nhớ tới ông. Tôi cũng chẳng khác gì kẻ bị biếm trích, một cơn gió bão đã hất tung tôi tới xứ Lá Phong với hai bàn tay trắng, còn ba mảnh bằng của tôi – tiến sĩ y khoa, cử nhân văn khoa và cử nhân luật khoa - bỗng trở thành mảnh giấy lộn. Sau một tuần đặt chân tới xứ băng giá này mà nhiệt độ mùa đông có khi xuống tới -40C, tôi được giới thiệu đi làm gác gian cho một công ty xây cất, mỗi đêm làm từ 8 giờ tối tới 8 giờ sáng chắc vì họ thấy tôi cũng khá cao ráo và biết tôi có học Thái Cực đạo và có đai nâu do một sĩ quan Đại Hàn dậy. Tôi cũng giống ông ở chỗ cũng thích ăn nhậu và nghe ca nhạc nhưng hồi đó làm gì tìm đâu ra thức ăn đã quen miệng với hương vị nước mắm và tìm đâu ra những bản nhạc với tiếng mẹ đẻ mình đã yêu từ thuở nằm nôi. Tôi khác nào con hổ trong bài thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ, nào đâu thuở tung hoành, hống hách những ngày xưa, nào đâu những ngày đứng trên bục giảng bài cho các học sinh trường Trung học Hàn Thuyên, Bắc Ninh, trường Quốc gia Sư phạm và Gia Long, trường Khuyến Học, trường Quân Y. Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? 

Nhờ Trời, sau 6 tháng tức 180 đêm tức 2160 giờ dùi mài kinh sử, tôi lấy lại được bằng bác sĩ của xứ người nhưng chưa có chỗ nội trú, tôi phải hành nghề gác gian thêm nửa năm nữa. Mấy bài thơ của ông tôi dịch đâu có đem theo được, nhưng may mắn thay, sau khi về hưu, thời giờ rảnh rang và tìm lại cái thú cầm kỳ thi họa thì mới gần đây một bạn đồng nghiệp, BS Nguyễn Thượng Vũ, xứ Cờ Hoa đã ưu ái gửi cho xem bài thơ dịch Tỳ bà hành của một đồng nghiệp khác là BS Nguyễn Văn Bảo, đọc lại thơ ông thấy lần này mới thật thấm thiá vì bài thơ nói lên đúng tâm trạng và hoàn cảnh của mình, có thể còn bi đát hơn của ông nữa nên đọc đi đọc lại, càng đọc càng mê tới nỗi mát dây mát dợ, nghĩ tự mình phải dịch nó ra lại thì mới tận hưởng cái cảm khoái của mình. Thế là lại thêm một lần khổ công với thơ ông nữa, nhưng lần này thì có lẽ bớt gay cấn hơn những lần trước vì bây giờ mình có thể đọc thơ của những người đã dịch, tìm hiểu xem họ, từ các bậc tiền bối như Phan Huy Thực, Trần Trọng Kim, tới các người đương thời như Hoàng Duy Từ, Bùi Khánh Đản, Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Hữu Vinh, Thu Tứ vv... đã dịch rất hay, hay vừa và chưa thật hay ở chỗ nào, đoạn nào, câu nào, chữ nào để bắt chước hoặc tránh né, rồi được tiếp nhận thêm ý kiến của các đồng nghiệp Lai Mạnh Cường, Hà Ngọc Thuần và Huỳnh Kim Giám, và kết quả là bài thơ dịch Tỳ bà hành tôi mạo muội đưa ra trình làng hôm nay..

Thật vậy, tôi đã nghe ý kiến của BS Bảo, trái với những người dịch khác, cho rằng trong buổi tiệc tiễn đưa khách, Bạch tiên sinh không cần tới nhạc tiễn khách chứ không phải ông thiếu đàn sáo vì đã làm tư mã tại đây cả hai năm ông đã nghe âm nhạc của điạ phương nhưng nó chướng tai sao đó nên ông chả thiết nghe cho tới lúc tiếng tỳ bà chợt vẳng lại và nhận ra tiếng đàn này xưa đã nghe tại kinh đô thì ông mới có hứng thú xin nàng đàn cho nghe. Trước kia tôi dịch hai câu “ Chủ nhân hạ mã, khách tại thuyền/Cử tửu dục ẩm vô quản huyền” là “Chủ nhân xuống ngựa, khách dưới đò/Rượu chuốc muốn uống thiếu trúc tơ” Tôi theo BS Bảo đổi ra là “ không trúc tơ” đúng với nguyên văn “vô quản huyền”. Tôi cũng mượn cụm từ “Cuốc kêu rướm máu” để dịch “Đỗ quyên đề huyết” và thấy chỗ này BS Bảo dịch hay hơn tất cả các dịch giả khác. Tôi cũng thấy BS Bảo khi dịch câu “Thập tam học đắc tỳ bà thành” hay hơn Phan Huy Vịnh đã dịch là “ Học đàn từ thưở mười ba”. Cái ý nghiã của câu “Khúc chung thâu bát đang tâm hoạch” cũng được BS Bảo dịch nghiã rõ ràng và nhất là tả đúng ngón đàn thiện nghệ. Điều tôi rất đồng ý với BS Bảo là khi dịch thơ Đường thì nên giữ nguyên các thể thơ, âm điệu và cách gieo vần và trong bài dịch này tôi đã theo các nguyên tắc kể trên. Thế là chỉ mới đọc bài dịch của bạn đồng nghiệp tôi đã học được lắm điều hay và xin gửi lời cảm tạ tại đây.

Tôi học được gì ở bản dịch của Phan Huy Thực? Mấy câu vừa đúng nghiã vừa đẹp là “Tay ôm đàn che nửa mặt hoa” và “Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao”, còn mấy câu khác không đúng nghiã cho lắm, ngược lại là khác như “Khúc tuy chưa trọn, tình đà thoảng bay” trong khi nguyên bản là “ tình đã sinh”, đáng lưu ý hơn nữa là câu “Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von” để dịch “Đỗ quyên đề huyết, viên ai minh” vì vượn kêu ai oán chứ đâu phải hót véo von. Còn câu “Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh” thì BS Bảo đã phê bình rồi, vận ép mà chữ sai. Một câu khác cũng đáng bàn luận là “Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh” được Phan Huy Thực dịch là “ Lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên”. Mới đầu tôi cũng dịch như vậy vì đó là cụm từ người mình hay nói nhưng sẽ có người hỏi trúc võ là gi? Tôi lại giở Trần Trọng Kim thấy ông dịch là Lau vàng trúc cỗi có lẽ dễ hiểu hơn nên tôi đổi theo học giả họ Trần nhất là sau khi đọc lời phê của vua Càn Long về Tỳ Bà Hành là “ông Bạch cứ hễ thấy ai đọc lên mà không hiểu thì ông lại sửa cho tới mọi người đều hiểu mới thôi và vì lẽ đó mà thơ ông được lưu truyền trong dân gian”. Lời phê này tôi đọc trong cuốn Tỳ Bà Hành của Nguyễn Hữu Ái cũng do một đồng nghiệp từ Úc gửi cho là BS Hà Ngọc Thuần. Xin cảm tạ muôn vàn. Tôi nhớ tới Cao Bá Quát cũng tả cảnh tương tự như vậy trong một bài thơ nên lại tra cứu Cao Bá Quát và tìm ra hai câu thơ trong bài Sắp Đến Quê Nhà như sau, “Trúc đầy che lối hẻm/ Cỏ mượt mọc quanh thềm” và tôi lấy cả ý và lời của hai ông Trần và Cao để sửa lại thơ tôi. Thảng hoặc có ai chê thì tôi sẽ lấy hai cái cột trụ này ra chống đỡ, như vậy là ăn chắc rồi còn gì nữa. Còn một liên cú nữa trong tỳ bà hành, câu thứ năm và sáu, “Túy bất thành hoan thảm tương biệt/ Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt” Phan Huy Thực dịch, “ Say những luống ngại khi chia rẽ/ Nước mênh mông đượm vẻ trăng trong” để tả tấm lòng Bạch tiên sinh khi tương biệt thì gượng gạo và ý nghiã có phần sai lệch. Tôi theo ý kiến của hai thân hữu, BS Lai Mạnh Cường và Huỳnh Kim Giám cho rằng theo tứ thơ thì trăng mới là chủ động, trăng đã xuống sông tắm làm dao động mặt nước và là biểu tượng cho nỗi lòng dao động của người trong cuộc. Từ những ý tưởng đó tôi dịch hai câu liên cú như sau, “ Say cũng chẳng vui. Sầu ly biệt/ Mênh mang như trăng loang nước biếc”. Cái mênh mang của nước tuy đã chiếm ba phần tư quả địa cầu như nhà thơ Xuân Diệu viết “Trái đất ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung”, nhưng còn thua cái mênh mang của trăng, chiếm cả một hành tinh. Thêm nữa câu thơ với điệp vận ang, ăng, oang còn có hiệu ứng tăng thêm một bậc nữa cái mênh mang của nỗi buồn. Vài lời bàn luận thô thiển mong không làm chướng tai quý bạn đọc.

Trân trọng,

Hoàng Xuân Thảo
***
Huỳnh Kim Giám giải thích:

Tôi giao thiệp với anh Khôi-Hoàng Xuân Thảo lần đầu tiên quanh chín năm trước khi bàn với anh về chuyện dịch bài Tỳ Bà Hành. Dĩ nhiên không phải là bàn về toàn bài vì tôi không phải là người thích dịch thơ. Tôi chỉ bàn về lối hiểu câu 6 別時茫茫江浸月=biệt thì mang mang giang tẩm nguyệt (đa số người chuyển ngữ bài thơ này dùng 'thời' thay vì 'thì' cho 時 nhưng tôi thich âm thì hơn).

Từ =mang có hai nghĩa là rộng và mơ hồ. Từ láy 茫茫=mang mang cũng giữ hai nghĩa đó và ta cần biết tĩnh từ, hay trạng từ, mang mang bổ nghĩa cho từ/ý nào trong câu thơ. Câu 江浸月=giang tẩm nguyệt là một câu đảo ngữ trong đó chủ từ nguyệt/trăng đứng sau động từ tẩm/tắm và túc từ giang/sông. Từ kép mang mang là trạng từ bổ nghĩa cho động từ tẩm/tắm; hai chữ 別時=biệt thì đầu câu là túc từ chỉ thời điểm cho cảnh trăng soi trên sông trong buổi tiễn đưa. Theo văn phạm và cú pháp đó thì ta có thể hình dung bóng trăng mờ ảo trên sông vì mặt sông đang gợn sóng như sóng lòng người ly biệt. Sau ý kiến đó, anh Khôi dịch câu 6 thành "Mênh mang như trăng loang nước biếc". Và có thể cũng vì góp ý đó, anh Khôi giới thiệu tôi vào LT_21 vì tự nhiên tên tôi xuất hiện trong danh sách thành viên của dđ sau đó.


Huỳnh Kim Giám

***
Góp ý của Lộc Bắc:

Từ khi “bén duyên” với Đường thi, Tống từ tôi luôn ước mong có một ngày dịch được bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị. Tôi đã nhiều lần dịch thử nhưng đều bỏ ngang giữa chừng, vì bài dài quá, không đủ hơi đi tới cùng, và cũng phân vân không biết nên dịch theo thể thơ nào cho thích hợp. Cho tới khi học được kinh nghiệm dịch nôm của hai đàn anh trong nhóm là anh Hoàng Ngọc Khôi và Con Cò Nguyễn Văn Bảo cùng đọc thêm được bài tựa (tiểu dẫn), tôi mới tạm phỏng dịch được, nhân thể diễn nôm luôn bài Tựa (tiểu dẫn) cho trọn bài thơ Tỳ Bà Hành.

Từ bài này tôi rút được kinh nghiệm về việc phỏng dịch thơ cổ nhiều dòng, lắm chữ:

Phỏng dịch những bài thơ dài cái khó nhất là chọn thể thơ thích hợp. Tốt nhất là dùng ngay thể thơ của bản gốc vì nó phản ánh được cái hay, cái khó của thể thơ cùng tâm tình, ý tứ của tác giả. Trong những bài tác giả chia bài thơ làm nhiều khổ 4 câu với cách gieo vần khác nhau, thí dụ như bài Tỳ Bà Hành, thì nên chọn cách dịch đúng như nguyên tác vì có thể coi như dịch nhiều bài bốn câu, như vậy sẽ không ngán; mỗi ngày dịch một vài khổ, lâu ngày rồi cũng xong. Nhưng cách dịch này cũng gây bất tiện cho người đọc vì vần điệu bị ngắt quãng, đọc không thông suốt, khó nhớ.

Để thoát khỏi những bất tiện trên đa số người dịch thường dùng các thể thơ thuần Việt như lục bát, song thất lục bát… cách này cũng có cái khó là âm vận phải liên tục từ đầu đến cuối bài, khổ trước xong nhiều khi không làm sao nối với khổ sau cho suôn sẻ làm việc dịch trở ngại; muốn tránh phải thêm bớt, thay đổi một chút ý của tác giả; ngoài ra số chữ của mỗi câu cũng khác với nguyên bản đôi khi cũng gây thừa thiếu ý.

Kinh nghiệm cá nhân: nên dùng thể thơ thuần túy Việt Nam theo thứ tự ưu tiên song thất lục bát, lục bát để dịch các bài thơ nguyên bản tiếng Hán dài. Thể thơ song thất lục bát có thanh cuối câu cả bằng lẫn trắc âm điệu trôi chảy, liên tục dễ nhớ.

Đọc kỹ phần Tiểu dẫn: trong thi văn cổ tiếng Hán tiểu dẫn là một đoạn văn ngắn được viết trước bài thơ hoặc bài văn như lời TỰA, nhằm giới thiệu bối cảnh sáng tác, mục đích hoặc cảm hứng của tác giả. Nó giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội dung và ý nghĩa tác phẩm. Đây cũng là phần tóm tắt của bài thơ.

Trong nhiều tập thơ cổ, đặc biệt là thơ Đường, Tống, phần "tiểu dẫn" thường ghi lại hoàn cảnh lịch sử, cảm xúc cá nhân của tác giả hoặc những sự kiện liên quan đến bài thơ. Một số nhà thơ nổi tiếng như Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha thường để lại "tiểu dẫn" cho các tác phẩm của mình. Thi hào Nguyễn Du cũng viết phần tiểu dẫn cho nhiều bài thơ như bài Long Thành Cầm Giả Ca.

Tiểu dẫn bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị:

元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲;問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲,曲罷憫然。自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年 恬然自安,感斯人言,是夕,始覺有遷謫意,因為長句歌以贈之,凡六百一十六言,命曰琵琶行。(163 chữ)

Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận tư mã. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm, tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc bãi mẫn nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tuỵ, chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn, thị tịch, thuỷ giác hữu thiên trích ý, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ bà hành.

Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức tư mã ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiếng đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng “Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 chữ, gọi là Tỳ bà hành.


Trần Trọng San dịch
***
Diễn Nôm bài Tiểu Dẫn:

Tỳ Bà Hành


Nguyên Hòa niên hiệu thứ mười
Ta về Tư Mã dưới trời Cửu Giang
Thu sau tiễn khách lên đàng
Thuyền ai đàn vẳng vọng sang tỳ bà

Kinh đô điệu nhạc kiêu sa
Lần tìm gạn hỏi gần xa rõ ràng
Thưa rằng: con hát Trường An
Mục, Tào sư phụ bảo ban dạy nghề

Tuổi cao, nhan sắc ê chề
Lấy chồng thương lái không về đã lâu
Nghe ra, bày rượu giải sầu
Xin nàng đàn lại mấy câu tâm tình

Đàn xong cảm xúc phiêu linh
Nàng bèn kể chuyện đời mình truân chuyên
Trẻ măng vui sướng đảo điên
Về già lưu lạc khắp miền, khổ đau

Hai năm giáng chức qua mau
Bình yên, thanh thản ưu sầu nhạt phai
Nghe nàng giãi bạch hôm nay
Thương mình số phận lưu đày bấy lâu!

Trên thuyền giấy bút tuôn mau
Bài thơ dài dặc nhiều câu tặng nàng
Sáu trăm mười sáu chữ vàng
“Tỳ Bà Hành” tựa, ngổn ngang ân tình!

Diễn Nôm bài Tỳ Bà Hành:

Tỳ Bà Hành


Bến Tầm Dương đêm khuya tiễn khách
Lá phong vàng, lau lách buồn thiu
Người xuống ngựa, khách thuyền neo
Rượu nâng dợm uống, sáo-tiêu ước gì!

Say chẳng vui. Biệt ly sầu thảm
Buồn chia tay sông đẫm bóng trăng
Tỳ bà chợt vẳng mông lung
Chủ nhân nán lại, khách không lên đàng

Lần tiếng đàn tìm sang dò hỏi
Tỳ bà im, giọng nói ngại ngùng
Cập thuyền xin gặp khiêm cung
Thắp đèn, thêm rượu để cùng chung vui

Mời mọc mãi đáp lời lần lữa
Ôm tỳ bà che nửa mặt hoa
So dây, vặn trục vài ba
Dẫu chưa nên khúc, nghe ra hữu tình

Dây dây nhấn, thanh thanh có ý
Chẳng khúc nao đắc chí với đời
Cau mày gảy mãi không ngơi
Giãi bày tâm sự đầu đuôi ngọn ngành

Nhẹ nắn vuốt, chậm nhanh gảy tiếp
Đầu Nghê Thường, sau khúc Lục Yêu
Ào ào dây lớn mưa chiều
Nỉ non dây nhỏ riêng điều héo hon

Tiếng ào ào, nỉ non lẫn lộn
Châu nhỏ to rắc chốn ngọc bàn
Trong hoa oanh hót bẽ bàng
Ngập ngừng suối nước chảy tràn bãi khe

Suối đóng băng, đàn nghe ngưng bặt
Việc không thông đàn thoắt lặng câm
Sầu riêng u uẩn trong tâm
Vô thanh vượt trội thanh âm rộn ràng

Nước tung tóe vỡ tan bình bạc
Như kỵ binh dáo mác sáng ngời
Khúc xong vuốt mạnh đàn; Thôi
Bốn dây lụa xé vang trời một phen!

Thuyền đông tây lặng yên tức khắc
Chỉ trăng thu vằng vặc giữa dòng
Trầm ngâm dắt phím, đàn xong
Sửa sang y phục, thong dong nét ngài!

Tự thưa thốt, thiếp đây thành phố
Lăng Hà Mô nhà trọ kinh kỳ
Mười ba học được đàn tỳ
Giáo phường đệ nhất tiếng đi xa gần

Gảy hết khúc, thầy đàn cũng phục
Điểm trang xong, ấm ức Thu Nương
Ngũ Lăng trai trẻ tranh cuồng
Một bài, khen thưởng cả rương lụa đào

Vành lược bạc, trâm đầu gõ vỡ
Quần lụa hồng, rượu ố đó đây
Năm nao cũng vậy vui vầy
Thu trăng, xuân gió hây hây an nhàn

Em đi lính, rồi tang dì chết
Nhan sắc tàn chiều hết, sớm đi
Trước nhà vắng vẻ ngựa xe
Về già mới được yên bề khách thương

Chồng tham lợi coi thường ly biệt
Đến Phù Lương mải miết mua trà
Cửa sông đơn độc lại qua
Quanh thuyền trăng sáng sương sa lạnh lùng

Giữa đêm khuya, trẻ trung nhớ lại
Khóc mộng nhòe má tái, nhạt son.
Tỳ bà nghe tiếng đã buồn
Lại thêm tâm sự nguồn cơn ngậm ngùi

Cùng luân lạc bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau chẳng hẳn thân quen
Năm rồi từ biệt đế kinh
Lưu đầy ngọa bệnh bên thành Tầm Dương

Xứ hẻo lánh Tầm Dương không nhạc
Suốt cả năm đàn hát chẳng nghe
Sông Bồn đất thấp, nhiều khe
Lau vàng, trúc võ quanh hè gió đưa

Ở chốn đây sớm trưa nghe được:
Vượn hú buồn, tiếng quốc máu văng
Xuân hoa nở. Thu ánh trăng
Thường thường uống rượu muộn mằn mình ta

Cũng chẳng thiếu dân ca, thôn địch
Nhưng khó nghe cúc kích, ê a
Đêm nay nghe tiếng tỳ bà
Tựa nghe tiên nhạc âm ba rõ ràng

Xin nán lại dạo đàn một khúc
“Tỳ bà hành” sáng tác vì nàng
Lời cảm động, đứng tần ngần
Rồi ngồi xuống gẩy muôn phần luyến dây

Đàn buồn thảm, trước đây chưa cất
Thẩy bao người che mặt xót xa
Chiếu này ai khóc thiết tha?
Giang Châu tư mã lệ nhòa áo xanh!

Lộc Bắc
***
Phỏng Dịch:

Tỳ Bà Hành


1-Bến Tầm Dương tiễn khách đêm thâu
Xao xác phong/lau quyện gió thu
Người xuống ngựa bên thuyền khách đứng
Nâng ly lại nhớ khúc đàn ru

2-Buồn chia tay rượu nồng nào vui
Sông nước mênh mông trăng ngậm ngùi…
Văng vẳng trên sông đàn vọng lại
Chủ nhân và khách quên chào lui

3- Nữ nhân lướt phím… đó là ai?
Im lặng tiếng đàn chưa muốn khai
Thuyền chuyển cận gần mong biết mặt
Thắp đèn châm rượu tiệc khao bày

4- Van nài ngàn vạn… vén màn ra
Ôm chiếc tỳ bà che mặt hoa
Chỉnh trục lên dây khảy bốn tiếng
Chửa thành ca khúc tình giao thoa

5- Từng dây khoan/nhặt tiếng u hoài
Muốn tỏ nỗi lòng trong đắng cay
Mày cúi ngón tay nhuần nhuyễn gảy
Phơi bày tâm sự những bi ai…

6- Vuốt êm lướt nhẹ hồn phiêu diêu
Xong khúc Nghê Thường sang Lục Yêu
Rào rạt dây to mưa xối tạt
Thì thầm dây nhỏ tỏ nhiều điều…

7- Rào rào lách tách nốt mi đồ…
Mâm ngọc châu rơi hạt nhỏ to
Ríu rít chim Oanh đang tập hót
Êm êm róc rách suối quanh co

8- Nước lạnh suối đông… đàn thở hắt
Âm thanh im bặt đàn ngưng tắt
Mối sầu khơi dậy bao chua cay
Lạnh ngắt vô thanh lại rất hay

9- Vỡ tan bình bạc nước tuôn trào
Loảng xoảng gươm khua ngựa phóng cao
Cuối khúc người đàn chợt phẩy tay
Nghe như xé lụa bốn dây nẩy

10- Thuyền bè vắng vẻ khắp đông tây
Chỉ thấy lòng sông trăng trắng ngây
Cài chiếc que đàn ngồi tư lự
Áo quần tề chỉnh đến chào đây

11- Thưa: tôi xưa vốn ở kinh kỳ
Thuộc xóm Hà Mô chả biết chi
Tuổi chớm mười ba tỳ bà thạo
Trong phường nổi tiếng cổ lai hi

12- Khi đàn dứt bản các thầy khen
Trang điểm Thu Nương ganh ghét ghen
Trai trẻ Ngũ Lăng thường tặng thưởng
Lụa là tới tấp tủ đầy chen

13- Hoa, lược gẫy ngang vì nhịp gõ
Quần là hoen ố rượu đào đổ
Miệt mài năm tháng vui chơi đùa
Lần lựa xuân thu nhàu bụi gió…

14- Em trai đi lính dì qua đời
Sớm tối qua nhanh nhan sắc phai
Ngoài cổng vắng thưa, xe ngựa thớt
Gả cho ông lão góa đơn côi

15- Lái buôn hám lợi thích bôn ba
Tháng trước mùa chè lão sống xa
Tôi giữ thuyền không, neo bến đậu
Quanh năm nước lạnh bóng trăng sa

16- Đêm khuya bỗng mộng thời xuân trẻ
Lệ đẫm trong mơ phấn ướt nhoè
Nghe tiếng tỳ bà đã tái tê…
Nay thêm tâm sự lòng u uất

17- Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp nhau chưa hẳn đã thân nhau
Rời kinh thành tháng cùng năm tận
Đất khách Tầm Dương ngọa bệnh nao

18- Xứ này hẻo lánh không ca nhạc
Năm tháng chưa nghe tiếng sáo đàn
Sống giữa bốn thành đất ẩm thấp
Lau vàng tre nứa mọc quanh sân

19- Nơi đây sáng/tối nghe gì tai?
Quyên hót vượn kêu sầu thảm ai
Hoa sớm đêm thu trăng toả sáng
Một mình rót rượu… một mình say

20- Ca rừng sáo nội đâu không có
Tiếng líu lo… thật rất khó nghe
Thưởng thức khúc tỳ bà buổi tối
Nhạc tiên khoan khoái lệ châu nhoè

21- Xin nán lại gảy thêm một khúc
Vì nàng sẽ chuyển “Tỳ Bà Hành”
Cảm lời đứng lặng sau một lát
So dây vặn trục chuyển âm thanh

22- Não nùng không giống khúc đàn kia
Trong tiệc ai nghe đều lệ chảy
Người khóc thật nhiều… đố biết ai?
Áo xanh đẫm lệ: chàng Tư Mã

Kiều Mộng Hà
March.17.2026


Nguyên tác          Dịch âm

夜箏                     Dạ Tranh

紫袖紅弦明月中 Tử tụ hồng huyền minh nguyệt trung,
自彈自感闇低容 Tự đàn tự cảm ám đê dung.
弦凝指咽聲停處 Huyền ngưng chỉ yết thanh đình xứ,
別有深情一萬重 Biệt hữu thâm tình nhất vạn trùng.

Chú giải:.

Tử: tiá, tím. Tụ: tay aó. Ám: mờ, ngầm. Đê: hạ xuống, cúi xuống. Dung: hình dong. Chỉ: ngón tay. Yết: Nuốt (yết hầu). Đình: ngừng. Xứ: chỗ. Biệt: biệt ly.

Dịch thơ

Đàn Tranh Trong Đêm*


Áo tía dây hồng trong ánh trăng.
Tự đàn tự cảm thẹn dung nhan.
Dây ngừng ngón nghẹn âm thanh lặng.
Vĩnh biệt tri âm một vạn trùng.

*Bài này được coi là tóm lược của Tỳ bà hành

Lời bàn của Con Cò

Có một mối tri âm thầm kín trong bốn câu thơ này. Nói cách khác, giữa người cô phụ gẩy đàn tỳ bà tại bến Tầm Dương đêm xưa và Bạch Cư Dị gẩy đàn tranh đêm nay có mối tri âm. Vì thế cho nên người ta coi bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này là tóm lược của Tỳ Bà Hành.

Con Cò
***
Góp ý của Bát Sách:


Cái này là ÔC hại đàn em, cho một chưởng cho nó chết luôn, đưa ra một lúc hai bài trường thiên, mà BS đã nói, rất sợ mấy bài thơ dài, đọc thì mệt dịch thì không nổi.

- Trường Hận Ca thì chưa bao giờ BS thích.
- Tỳ Bà Hành thì thích hơn một chút, nhưng một phần là nhờ bản dịch rất Việt Nam của Phan Huy Vịnh (Thực)...

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách,
Trạnh hơi thu, lau lách đìu hiu..


Nói như vậy không phải BS chê bài dịch của ÔC đâu, không ai dám chê hết, nhưng ÔC cố giữ thể thơ của tác giả, nên thường vất vả.

Bài ngắn ở chính giữa là Dạ Tranh, BS thắc mắc chữ chỉ yết, viết với bộ khẩu, có nghĩa là Yết hầu, có nghĩa là cổ họng, nuốt xuống, nghẽn tắc, BS không tưởng tượng ra chỉ yết như thế nào... Ngón tắc, chắc là để ngón trên giây cho nó ngừng kêu..
BS xin dịch bài này, 2 bài kia thì.... đầu hàng.

Giây hồng, áo tía, ánh trăng trong.
Tự đàn, tự cảm, giảm nghi dung.
Dây ngừng, ngón vuốt, tơ đàn dứt.
Tình thâm đưa bạn sánh vạn trùng.


Bát Sách.
***
Thật tuyệt vời!

Làm thơ đã khó mà thơ chữ Hán lại càng khó vì một chữ một câu chứa đầy ẩn dụ, điển cố... Thế mà ÔC đã vượt qua được hết để đưa đến cho độc giả cái ý, cái hồn của hai bài thơ dài của một trong những "cổ thụ" của làng thơ xưa., Bạch Cư Dị.

Từ bé Mỹ LAN (ML) vốn luôn luôn có cảm tình đặc biệt với song thất lục bát, ML thấy nó phong phú hơn, nó đẹp hơn lục bát bội phần. Nay gặp một lúc hai bài song thất lục bát với tài múa bút của ÔC thì rõ là "buồn ngủ mà gặp chiếu manh", sung sướng cách chi! Bỏ qua chút thông vận, miễn là tránh được cưỡng vận là tốt rồi. ÔC than là không "thấy" được văn phong của BCD nhưng có sao? BCD làm thơ chữ Hán, thể thất ngôn, ÔC làm thơ chữ Việt thể song thất lục bát nhưng ý thơ, hồn thơ đâu có suy suyển! Hỏi trong thiên hạ, hôm nay mấy ai ngồi chuyển những bài thơ hay từ ngàn năm trước của người xưa tới độc giả ngày nay?

ML chỉ được nghe và xem người ta chơi tỳ bà còn đàn tranh thập lục thì có võ vẽ từng tưng khi xưa. Cái đàn vẫn mang theo từ khi chị Thúy Hoan (giáo sư bộ môn đàn tranh trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn) chọn mua hộ từ VN tha sang Pháp, từ Pháp tha sang Mỹ rồi lại từ Mỹ quay về Pháp và hiện nay vẫn được treo song song với cây độc huyền của ông chồng trong couloir. Khi đi ngang thỉnh thoảng cũng lấy tay vuốt mấy dây đàn... để nhớ tới những ngày cũ. Trong phim "Thế Giới Màu Xanh" về botanique, ML đã ghép cái hình mặc áo dài ngồi đàn tranh với khăn vành dây lên trên lá "sen hoàng hậu" (nhưng thực ra là súng) để dẫn chứng là lá này rộng và khỏe để một người có thể ngồi trên đó.

Cám ơn ÔC đã gửi tiếng đàn tỳ bà của người cô phụ trên bến Tầm Dương về đến ngôi nhà bên sông Garonne.

Thân kính,

Quản Mỹ Lan 

Bái phục Ông Cò.
***

Tiếng Đàn Trong Đêm.

Sợi hồng áo tím dưới trăng thâu,
Tự gẩy tự thương cúi mặt sầu.
Ngón nghẹn giây ngưng đàn lặng tiếng,
Tiễn nhau tình sánh vạn dặm sâu.

Mỹ Ngọc
phỏng dịch.
Oct. 2/2024.
***
Xin góp 4 câu thơ cho bài Dạ Tranh, để mừng sinh nhật thứ 91 của Ông Cò.


Nhân dịp cũng tỏ lòng bái phục ÔC và Huynh trưởng Hoàng Ngọc Khôi đã dịch thật xuất sắc nguyên bản. Chỉ những cao thủ thượng thừa mới làm được.

Chúc ÔC dồi dào sức khỏe, đầu óc minh mẫn và sống lâu hơn 100 tuổi để hướng dẫn Lt 21.

Tiếng Đàn Đêm Trăng

Dưới trăng áo tím, phím đàn hồng
Cúi mặt miệt mài khúc nhớ thương
Nức nở bổng âm thanh nghẹn đứt
Nghìn trùng vĩnh biệt mối tình vương

Thanh Vân
***
Tiếng Đàn Đêm Trăng
 
Thiếu phị dưới trăng áo tím sầu
Đắm chìm đàn khảy nghẹn lòng đau
Âm ngân đứt đoạn niềm ai oán
Vạn dặm mãi chờ dẫu cách  nhau
 
Kim Oanh
***
Gảy Đàn Canh Đêm

 
Xiêm y sắc tím thướt tha,
Phớt hồng tay áo - trăng tà sáng soi.
Đàn tranh mờ mịt chơi vơi,
Thẹn thùng tự cảm - khắc thời dung nhan.
Phím tơ tay dứt ngỡ ngàng,
Nghẹn ngào nuốt bọt - võ vàng bặt âm.
Biệt từ bằng hữu tình thâm,
Bạn lòng vạn dặm - há cầm lệ sa...

Khánh-Hưng 

Chúc mừng sinh nhật anh Cò.

琵琶行-白居易 Tỳ Bà Hành - Bạch Cư Dị

Tôi ít năng khiếu về trường thi, nên hay bị bí khi gặp các bài thơ dài. Do vậy tôi rất ngưỡng mộ các anh Hoàng Xuân Thảo, Nguyễn Văn Bảo… đã dịch rất hay các bài thơ dài hàng trăm câu như Tỳ Bà Hành, Trường Hận Ca… Đang bâng khuâng không biết góp ý như thế nào cho bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, thời may đọc được đoạn anh Cò viết về bài tứ tuyệt Dạ Tranh mà anh cho là tóm lược ý bài Tỳ Bà Hành. Bài Dạ Tranh được tôi dịch để kết thúc câu chuyện tình bất thành của Bạch Cư Dị và Tương Linh Thanh.

Dù biết đàn tranh khác đàn tỳ bà, tôi cũng xin dùng thơ đàn tranh Dạ Tranh cùng với tiếng đàn tỳ bà Tỳ Bà Độc Tấu để

Tỳ Bà Độc Tấu

Mối Tình Vô Vọng Của Bạch Cư Dị

Vào năm Kiến Trung thứ 3 (782), lúc mới 11 tuổi, để tránh chiến tranh ở quê nhà, Bạch Cư Dị theo mẹ đến sống ở Phù Ly (nay là quận Vĩnh Kiều, thành phố Tô Châu, tỉnh An Huy), nơi cha ông là Bạch Quý Canh làm quan. Tại đây, ông quen thân với thiếu nữ hàng xóm tên Tương Linh 湘靈, nhỏ hơn ông 4 tuổi. Tương Linh tính tình hoạt bát, dễ thương, lại biết ca hát nên hai người trở thành bạn thân từ thuở nhỏ. Khi Bạch 19 tuổi và Tương Linh 15, cả hai bắt đầu mối tình đầu của họ. Bạch có bài tứ tuyệt Lân Nữ 鄰女, kể lại Tương Linh mười lăm tuổi và ca ngợi vẻ đẹp cũng như giọng hát du dương của nàng.



Năm Trinh Nguyên thứ 14 (798), Bạch Cư Dịch phải rời Phù Ly đến sống chỗ của người chú ở Giang Nam. Trên đường đi, ông đã viết ba bài thơ để tưởng nhớ Tương Linh. Đó là bài Ký Tương Linh 寄湘靈, Hàn Khuê Dạ 寒閨夜 và Trường Tương Tư 長相思. Qua các bài thơ này, ta có thể thấy rõ Bạch và Tương Linh đã có một mối tình sâu đậm sau 17 năm quen biết nhau và 8 năm yêu nhau. Sau khi chia tay, Bạch không chỉ đau khổ vì xa cách, có nghĩ đến kết hôn, nhưng không thực hiện được. Cuối bài thơ, Bạch bày tỏ nguyện vọng tha thiết cùng Tương Linh từng bước sánh vai.

Đầu năm Trinh Nguyên thứ 16 (800), Bạch 29 tuổi, thi đỗ tiến sĩ rồi trở lại Phù Ly gần mười tháng. Năm này Bạch có xin phép mẹ để cưới Tương Linh làm vợ. Mẹ ông, một người bảo thủ phong kiến, không chịu vì cho là cuộc hôn nhân không môn đăng hậu đối. Vào mùa thu năm Trinh Nguyên thứ 20 (804), Bạch được bổ nhiệm chức Giáo Thư Lang nên phải dời về Trường An nhận việc. Bạch lại xin mẹ cho cưới Tương Linh. Lần nầy, mẹ ông không những từ chối cuộc hôn nhân mà còn cấm không cho họ gặp mặt và liên lạc nhau. Hôn nhân vô vọng, nhưng tình yêu sâu đậm của Bạch không dừng ở đó. Trong thời kỳ này, ông có viết hai bài thơ để tưởng nhớ Tương Linh: Đông Chí Hoài Tương Linh 冬至夜懷湘靈 và Cảm Thu Ký Viễn 感秋寄遠.

Năm 37 tuổi, Bạch bị mẹ ép kết hôn với em gái của đồng nghiệp là Dương Nhữ Sĩ, nhưng mãi đến năm Nguyên Hòa thứ sáu (năm 811), lúc đó Bạch đã 40 tuổi ông vẫn còn làm thơ nhớ Tương Linh như bài: Dạ Vũ 夜雨 và bài Cảm Kính 感鏡 (năm 812).

Sau đó Bạch Cư Dịch bị giáng chức và biếm đi Giang Châu. Trên đường đi, Bạch cùng Dương phu nhân gặp cha con Tương Linh đang phiêu bạt, Bạch cùng Tương Linh ôm đầu khóc và làm bài thơ Phùng Cựu 逢舊. Lúc này Bạch đã 44 tuổi (815) và Tương Linh 40 tuổi, nhưng vẫn chưa lập gia đình. Trong bài thơ này Bạch có dùng chữ hận恨, nhưng hận恨 này không liên quan gì đến hận恨 của Trường Hận Ca 長恨歌. Vì vậy người ta nói rằng mối tình bi thảm mà Bạch trải qua đã đặt nền móng cho bài Trường Hận Ca.

Năm 50 tuổi, vẫn còn nghĩ đến Tương Linh, Bạch viết bài Ký Viễn 寄遠. Mãi đến năm 53 tuổi (824), trên đường trở về Lạc Kinh (tên gọi của Lạc Dương ngày đó), Bạch nhìn thấy hàng xóm cũ đã đổi thay mà Tương Linh thì không biết đã đi đâu. Bài Dạ Tranh 夜箏 có lẽ được viết trong thời gian này để tưởng nhớ đến hình bóng của nàng.


夜箏                     Dạ Tranh

紫袖紅弦明月中 Tử tụ hồng huyền minh nguyệt trung
自彈自感闇低容 Tự đàn tự cảm ám đê dung
弦凝指咽聲停處 Huyền ngưng chỉ yết thanh đình xứ
別有深情一萬重 Biệt hữu thâm tình nhất vạn trùng

Đêm trăng sáng có tiếng đàn tranh ai oán. Tay áo màu tím cho biết người đàn là một phụ nữ. Người đàn tập trung vào tình cảm của mình và không lưu tâm đến người nghe. Đột nhiên tiếng đàn ngưng, có thể người đàn bị tê ngón tay hay vì quá cảm xúc nên không tiếp tục đàn được nữa. Bài thơ không nói người phụ nữ đánh đàn là ai, đàn cho ai? Tay áo nàng màu tím, cúi đầu, mặt buồn. Người đàn phải là Tương Linh Thanh, người yêu đầu tiên và duy nhất mà Bạch Cư Dị luôn luôn có một hình ảnh sống động dù ở nơi nào. Câu chót gợi ý đến sự xa cách vạn dặm với một người bạn thâm tình.

Dịch thơ:

Đàn Tranh Trong Đêm


Dưới trăng áo tím lướt dây hồng.
Cảm xúc đắm chìm đáy tiếng trong.
Lòng nghẹn dây ngưng đàn đứt tiếng,
Nghìn trùng ly biệt vẫn chờ mong.

Bi kịch tình yêu kéo dài 35 năm của Bạch mới chấm dứt ở đây. Trong thời kỳ Trường Khánh (821-824), ông làm Tổng đốc Hàng Châu, đến năm Bảo Lịch thứ hai (825), ông được chuyển sang làm Tổng đốc Tô Châu. Năm Hội Xương thứ hai, ông làm Thượng Thư Bộ Hình và cuối cùng qua đời tại Hương Sơn, Lạc Dương.

Kết luận:

Bạch Cư Dị là một người có học thức, địa vị, danh vọng và đạo đức. Thương xót cho Ông phải sinh vào thời phong kiến nên vì hiếu thảo, lễ nghĩa phải hy sinh hạnh phúc cá nhân và của người yêu. Cần nói thêm là tôi không nhất thiết đồng ý với quan niệm của ông (qua thiếu nữ trong bài thơ). Tuy nhiên trong xã hội phong kiến nặng với ý thức gia trưởng, nhẹ với bình đẳng nam nữ (tòng phu như một ký sinh), Bạch đã có tư tưởng rất mới lạ và sinh động, thật tiến bộ cho thời đại như: nguyện làm thú xa để cùng sống, sánh bước bên nhau, làm cỗ thụ trong núi sâu để cộng sinh… Không hàm chứa khái niệm nam cao nữ thấp này, luôn yêu một người, mạnh dạn theo đuổi tình yêu hạnh phúc, nhưng kết quả vẫn là vô vọng. Cũng may là môn đăng hậu đối chỉ còn là một khái niệm mơ hồ trong thời hiện đại.


Phí Minh Tâm
22-3-2025
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét