海 上 萬 峰 群 玉 立 Hải thượng cao phong quần ngọc lập
星 羅 棋 布 翠 崢 嶸 Tinh la kỳ bố thúy tranh vanh
魚 鹽 如 土 民 趨 利 Ngư diêm như thổ dân xu lợì
禾 稻 無 田 稅 薄 征 Hòa đạo vô điền thuế bạc chinh
浪 向 山 屏 低 處 湧 Ba hướng sơn bình đê xứ dũng
舟 穿 石 壁 隙 中 行 Chu xuyên thạch bích khích trung hành
邊 氓 久 樂 承 平 化 Biên manh cửu lục thừa bình hóa
四 十 余 年 不 識 兵 Tứ thập dư niên bất thức binh
黎 聖 宗 Lê Thánh Tông (*1)
***
Bản dịch:
Cảnh Trí An Bang
Đỉnh ngọc nhấp nhô lộng gió mây
Núi cao tinh tú trập trùng vây
Dày công, ngư phủ thêm nghề muối
Nhẹ thuế, nông dân thỏa cấy cầy
Sóng dưới chân non vờn vỗ mạnh
Thuyền trên suối đá lướt như bay
Dân lành vui sống không binh biến
Bốn chục năm qua hạnh phúc thay
Trần Quốc Bảo
(*1) Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) là một vị Minh Quân của nước ta, trị vì 38 năm. Ngài rất thông minh, có hiếu với mẹ, tánh tình ôn hòa nhân hậu. Có công mở mang đất nước thịnh trị về mọi mặt. Đặc biệt về văn học: ấn định phép thi cử, mở mang trường ốc, lập Hội Tao-đàn vả chính Ngài là Tao Đàn Nguyên súy.
(*2)An-Bang lả tên một vùng đất xưa, thuở non nước thanh bình thịnh trị. Nay là Tỉnh Quảng Yên, Bắc Việt (Vùng đất nằm giữa Hải phòng, Uông Bí và Lào Cai,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét