Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2022

Albert Camus, Cây Bút Găn Bó Với Đời Sống Thế Gian - (Phần Cuối)


II. - Albert Camus, Cây Bút Gắn Bó Với Đời Sống Thế Gian

Albert Camus không thuộc loại nhà văn thích dậm chân tại chỗ, chỉ biết nhai đi nhai lại mỗi một chủ đề với những lập luận cũ rích và một mớ từ ngữ công thức sao mòn. Theo dõi các tác phẩm ông lần lượt cho ra đời, ta thấy có một quá trình chuyển biến tâm tư theo dòng thời sự. Ta có thể cảm nhận điều này qua bài tựa ông viết để thêm vào cho cuốn L'Envers et l'Endroit trong ấn bản Camus - Toàn bộ gồm hai tập trong Tủ sách Bibliotheque La Pléiade do nhà xuất bản Gallimard án hành năm 1956.

Với bài tựa cho cuốn L'Envers et l'Endroit, Camus như muốn ta cùng ông làm cuộc hành hương về nguồn, cái nguồn trong lành như dòng sữa mẹ đã dìu dắt ông và nuôi dưỡng ông, giúp ông giữ được nguồn cảm hứng nguyên thủy trong suốt cuộc đời viết văn của mình. Như ông đã bày tỏ ngay trang đầu của bài tựa: "Mỗi nghệ sĩ đều giữ trong tâm khảm một nguồn cảm hứng duy nhất đã nuôi dưỡng suốt cuộc đời viết văn của anh ta ... Về phần tôi, tôi biết rằng nguồn cảm hứng ấy nằm trong L'Envers et L'Endroit, trong cái thế giới bần hàn nhưng chan hòa ánh sáng đã giúp tránh khỏi hai mối đe dọa đối nghịch nhau với mọi nghệ sĩ, đó là mối hậm hực và lòng tụ mãn."* (Chaque artiste garde (ainsi), au fond de lui, une source unique qui alimente sa vie ce qu'il est et ce qu' il dit... Pour moi, je sais que ma source est dans L' Envers et l' Endroit, dans ce monde de pauvreté et de lumière où j' ai longtemps vécu et dont le souvenir me préserve de deux contraires qui menacent tout artiste, le ressentiment et la satisfaction. (Albert Camus - ESSAIS - L'Envers et l'Endroit, préface.- Bibliothèque La Pléiade, Gallimard 1956, p. 5 et 6). Tâm tình này, với ta, có thể là một nghịch lý, Nhưng phải là Camus và ở cảnh ngộ của ông, ta mới hiểu được.

Sinh ra ngày 7-11-1917 tại Belcourt, một khu phố bình dân lao động thuộc thành phố Alger trong một gia đình bần hàn. Cha ông là một thợ nông nghiệp, còn mẹ ông là một di dân gốc Tây Ban Nha lại thất học nên chỉ làm công việc của một femme de ménage, tức là phụ trách công việc trông nom nhà cửa và bếp núc cho các gia đình giàu có. Đã thế ông lại không may mắn sớm mồ côi cha, vì cha ông bị động viên và tử thương trong một trận đánh tại Marne ở Pháp. Trường hợp là tôi, chắc tôi không khỏi vò tai rứt tóc để la làng : tôi sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Nhưng Camus không hề cảm thấy như vậy, vì ông có được bà mẹ hiền hết lòng thương nên tận tụy lo cho ông và người anh được cắp sách đến trường như những đứa trẻ khác. 
Hết trung học, lẽ ra ông phải tiếp tục nghề của cha theo quyết định của ông cậu với quan niệm truyền thống gia đình: Con vua thì lại làm vua, là con thầy chùa về quét lá đa. Nhưng ông may mắn gặp được ông thầy giàu lòng nhân ái là Louis Germain, thấy ông học hành chuyên cần lại có năng khiếu nên can thiệp với gia đình và xin học bổng giúp ông ăn học lên tới đại học. Nhờ vậy mà trong những buổi cắp sách đến trường, ông còn được sống những giờ phút hồn nhiên vô tư trong những trò chơi lành mạnh với những bạn bè cùng lứa tuổi. Thêm vào đó, ông còn có thời gian rảnh rỗi đến thăm các địa danh mang tên Djémila, Tipaza mà người đời mấy ai thèm biết đến. Nhưng với ông đây cũng là những giây phút hạnh phúc vì ông được làm những cuộc giao duyên (Noces) với cảnh đẹp thiên nhiên, bên trên là bầu trời rộng bao la phía dưới là nước biển màu xanh biếc với tiếng sóng rạt rào. Trong khung cảnh đó, ông còn có dịp tới viếng thăm các di tích lịch sử điêu tàn đầy cỏ mọc, nhưng với ông lại là cơ hội để làm quen với của các nền văn minh La - Hy cổ xưa. 
Trong khung cảnh sinh hoạt ấy, ta mới hiểu tại sao ông cảm thấy hài lòng được sống giàu sang hạnh phúc như ông đã tâm tình cùng ta: " Sự nghèo khó, trước hết, với tôi, không hề là một điều bất hạnh : ánh sáng tràn lan sự giàu sang trên đó... Đôi khi tôi gặp được những người sống giữa những tài sản tôi không tưởng tượng nổi. Tuy nhiên tôi phải cố gắng để hiểu tại sao người ta có thể ham muốn các tài sản dó... Sự xa hoa nhất, với tôi, đều trùng hợp với một sự túng thiếu nào đó). (La pauvreté, d' abord, n'a jamais été un malheur pour moi: la lumière y répandait sa richesse... Je rencontre parfois des gens qui vivent au milieu des fortunes que je ne peux pas imaginer. Il me faut cependant un effort pour comprendre qu' on puisse envier ces fortunes... Le plus grand des luxes n'a jamais cessé pour moi avec un certain dénuement. Sdd, tr 7) Câu chót này có vẻ là một nghịch lý, Nhưng với Camus, điều này có nghĩa là những kẻ càng được sống trong cảnh giàu sang nhung lụa bao nhiêu, họ lại càng sống xa rời với thế giới con người và thế giới tự nhiên bấy nhiêu. Như con chim quen hót trong lồng son không biết hưởng cái hạnh phúc được sống tự do bay lượn giữa bầu trời trong xanh lồng lộng. Vậy khu phố Belcourt lao động bình dân đã trở thành một góc thiên đường với Camus là thế đó. Đồng thời nó cũng cho hiểu vì sao Camus, tuy có chuyển biến tâm tư, nhưng vẫn trung thành với nguồn cảm hứng ban đầu.

Nhưng trên cõi đời này có cái gì tồn tại vĩnh viễn đâu? Cũng như có bông hồng tươi thắm nào sớm mai chớm nở mà tôi lại chẳng phai ... tàn ? Thoạt nghe có vẻ cải lương hơi sến một chút đấy. Nhưng với Camus lại đúng là vậy. Đang sống vui hạnh phúc với khu phố nghèo nàn nhưng ấm áp tình người và chan hòa ánh sáng ấy, thì Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Trước những cảnh chết chóc tang thương, đổ vỡ hoang tàn, ông nay cảm thấy như ông A Dong và bà E Và bị bứng ra khỏi vườn địa đàng. Chỉ có điều khác biệt: ông A Dong và bà E Và vì lỡ nghe theo lời súi dại của con rắn độc. Còn mối bất hạnh của Camus là do tham vọng muốn thay đổi thế giới để làm nên lịch sử của một vài nhân vật. 

Thế là trước mắt Camus, nay bỗng dựng lên bức tường phi lý dày đặc bóng tối. Vậy ta phải đối đầu với phi lý sao đây? Câu chuyện về nhân vật huyền thoại Sisyphe đã chỉ dẫn Camus con đường tìm ra câu giải đáp: Đó là bằng thái độ phản kháng để bày tỏ quyết tâm không cam phận, phục tùng, chứ không phải bằng sự nổi loạn bạo động để phủ nhận với tham vọng thay đổi trật thế giới. Camus đã chia xẻ cùng ta con đường ông chọn để đương đầu với phi lý qua ba tác phẩm tiêu biểu như sau: Caligula, La Peste (Dịch Hạch) và Les Justes (Những kẻ Công Chinh).


Là một bạo Chúa trong lịch sử La Mã, Caligula khét tiếng là hiếu sát vì ra lệnh giết người vô cớ và vô luân vì ăn nằm chung chạ với Drasuila, em gái ruột và cũng là người tình ông thương mến nhất. Tuy nhiên mở đầu vở kịch, Caligula lại xuất hiện như là một ông vua nhân hậu, khoan dung, có triển vọng trở thành một đấng minh quân. Chỉ sau cái chết bất ngờ của Drasuila, Caligula mới biến thành bạo chúa với những sở thích độc địa, tùy hứng như tùy ra lệnh giết người vô cớ hay bắt quần thần đi lấy mặt trăng về làm đồ chơi. Sự thay đổi tính tình đột ngột này của Caligula khiến đám quần thần ngơ ngác. Chỉ riêng Caligula mới hiểu được nguyên nhân khi một mình lẩm bẩm: "Mọi người đều chết và không có hạnh phúc " (Les gens meurent et ils ne sont pas heureux - CALIGULA - Acte I, sc. 4 Coll. Folio Gallimard 1950 p. 27 ) Vậy là cái chết của Drasuila đã làm Caligula tỉnh mộng, không còn nuôi ảo tưởng gì về cuộc sống thế gian. Do đó ông ta mới đột ngột thay độ tính tình. Một phần vì nổi loạn, muốn thay đổi thân phận con người mà ông ta cho là phi lý. Phần khác là để thức tỉnh những ai còn nuôi ảo tưởng về hạnh phúc trường cửu trên đời này. Nhưng thái độ nổi loạn ấy chỉ là nỗ lực vô ích. Cuối cùng chính Caligula lại trở thành nạn nhân cho khát vọng ảo tưởng đó.

Đối nghịch với Caligula, chúng ta có bác sĩ Rieux trong La Peste. Tuy không nuôi ảo tưởng gì về thân phận phi lý con người. nhưng không vì thế mà Rieux cho là cuộc sống trên thế gian là vô nghĩa, là không đáng sống. Bởi vậy ông không nuôi tham vọng làm một người hùng hay nhân vật thần thánh nào đó để thay đổi bộ mặt thế gian. Tâm sự đó, ông đã chia xẻ cùng ta như sau: "Tôi không có sở thích với chủ nghĩa anh hùng hay thánh thiện. Điều làm tôi quan tâm, ấy là được làm con người". (Je n'ai pas de gout pour l'héroïsme ou la sainteté. Ce qui m'intéresse, c' est d'être un homme. La Peste - Gallimard 1967 Coll. Folio, p.230 ) Chỉ muốn được làm được người, bởi vì Rieux đã tìm ra được lẽ sống bằng cảm thông (compréhension) với đồng loại cùng chung cảnh ngộ như mình, lấy việc chia xẻ buồn vui với họ làm lé sống. Bởi vậy ông mới có tinh thần phục vụ cao, hết lòng chăm lo sức khỏe cho mọi người. Và Rieux không hề cảm thấy cô đơn khi thấy có nhiều người cùng mang tâm trạng như mình. Thí dụ như trường hợp phóng viên Rambert của một tờ báo Paris, Được phái tới công tác tại Oran, một thành phố của Algerie. chẳng được bao lâu thì có lệnh phong tỏa do bệnh dịch hạch ra tay hoành hành. Tự cho mình không có liên hệ gì với thành phố này nên lúc đầu Rambert tìm mọi cách trốn ra ngoài để trở về với người yêu ở Paris. Trong khi chờ được cơ hội, Rambert nhận làm phụ tá cho Rieux, đồng thời để nhờ bác sĩ lấy uy tín giúp anh ta có phương tiện đào tẩu. Nhưng khi gặp được thời cơ , phút chót Rambert lại quyết định không trốn đi. Trước cái nhìn thắc mắc dò hỏi của Rieux, Rambert chỉ ngắn gọn trả lời :" Thật là một điều tủi hổ khi chi lo hạnh phúc cho riêng mình" (Il ya honte à être heureux tout seul. Sdd, tr. 190 ) Sự thay đổi thái độ của Rambert giúp ta hiểu được tại sao Rieux lại gắn bó với cuộc sống thế gian và chỉ muốn được là con người. Như ông ta đã nhận định trong phần chót của câu truyện: " Trong những cơn đại dịch ta lại thấy nơi con người nhiều điều đáng chiêm ngưỡng hơn là để khinh bỉ." ( On apprend au milieu des fléaux, qu'il y a plus de choses à admirer que de choses à mépriser". Sdd. tr. 279)

Nhưng tai họa thế gian không chi do dịch bệnh hay biến động thiên nhiên, mà còn do những kẻ ôm mộng hoang tưởng cải tạo thế gian như Caligula. Bởi vậy cũng có lúc con người thấy phải ra tay hành động. Không phải để thay đổi thế gian, mà là để thay đổi cuộc sống, Đó là trường hợp của Kaliaev hay Yanek trong vở kịch Les Justes (Những kẻ công chính) (1). Là thành viên của một tổ chức hoạt động bí mật nhằm lật chế độ Nga hoàng chuyên chế áp bức, Kaliaev được tổ chức giao cho sứ mạng ôm bom lao vào chiếc xe của quận công Serge, một cận thần của Nga Hoàng, để sát hại ông ta. Bất ngờ đúng ngày phải ra tay hành động, trên xe lại có hai trẻ nhỏ là những đứa cháu của quận công, Thấy không thể bắt những đứa trẻ trở thành nạn nhân vô tội, Kaliaev đành ôm bom trở về. Kaliaev liền bị Stepan, một thành viên quá khích trong tổ chức, lên án là hèn nhát và phán rằng đã làm cách mạng thì không có giới hạn. Kaliaev đã thẳng thắn đáp trả: "Tôi chấp nhận giết người là để lật đổ chuyên chế. Nhưng đằng sau điều anh vừa nói, tôi lại thấy báo hiệu một nền chuyên chế mới mà, nếu trở thành hiện thực, nó sẽ biến tôi thành một tên sát nhân trong khi tôi chỉ muốn làm kẻ thi hành công lý." (J'accepte de tuer pour renverser le despotisme. Mais derrière ce que tu dis je vois annoncer un despotisme qui, s'il s'installe jamais, fera se moi un assassin alors que j'essaie d'être un justicier. Les Justes, Acte II, p. 63 * Folio). Ba ngày sau, gặp quận công một mình trên cỗ xe, Kaliaev đã quyết đinh hi sinh ôm bom phóng vào để hoàn thành sứ mạng.
Mấy nhân vật biểu tượng trong ba tác phẩm nêu trên cho thấy sư chuyên biến tâm tư nơi Camus không hề là một tách lìa với nguồn cảm hứng nguyên thủy. Nó chỉ là kết quả, của một sự trưởng thành trong khói lửa, theo cách nói của dân lính tráng miền Nam chúng tôi trước đây. Cũng nhờ có được sự trưởng thành trong khói lửa ấy, Camus mới ý thức được vai trò và trách nhiệm của người nghệ sĩ nói chung, người cầm bút nói riêng trước diễn biến lịch sử. Và ông đã làm sáng tỏ ý thức này về vai trò của người làm công tác văn học nghệ thuật trong hai bài diễn từ đọc tại thủ đô Stockholm nhân dịp tới nhận giải thưởng văn học Nobel.


Trong bài diễn từ đọc ngày 10 -10- 1957 để nhận giải, Camus đã nói lên nỗi bàng hoàng xúc động khi được biết trao tặng giải thưởng cao quý này. Ông cho rằng sở dĩ ông được cái vinh dự cao quí đó là do ông đã thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của người làm văn học: đó là không dùng ngòi bút để phục vụ những kẻ muốn làm nên lịch sử, mà phải phục vụ những kẻ là nạn nhân của những tham vọng làm nên lịch sử. Với Camus đó chính là một chức năng cao quý nhưng khó khăn, đòi hỏi người cầm bút phải tôn trọng hai điều cam kết không phải dễ dàng. Đó là: không dối trá về những gì mình biết và chống lại sự áp bức. Trách nhiệm và vai trò này, ông đã dành cho buổi nói chuyện ( conférence) tại đại giảng đường đại học Upsal ngày 14 - 12 - 1957 để trình bày làm sáng tỏ. Bài nói chuyện khá dài. Tôi xin chỉ tóm lược những điểm chính như sau.

Mở đầu bài nói chuyện, Camus đã mượn lời một hiền triết đông phương mỗi ngày đều cầu nguyện thần linh tránh cho ông ta khỏi phải sống trong một thời đại đáng chú ý. Nhưng Camus lại cho rằng thế hệ ông không có may mắn nên phải sống trong một thời đại đáng chú ý với hai cuộc Đại Thế Chiến xảy ra. Trước những cảnh tượng chết chóc đau thương va đổ vỡ điêu tàn, Camus cho rằng nhà văn có ý thức trách nhiệm không thể tiếp tục giam mình trong tháp ngà để tìm lời hoa mỹ ca ngợi trăng sao hay kể những câu chuyện tình mùi mẫn ướt át. Anh ta phải coi mình như kẻ đã "bước xuống tàu", hay " embarqué" theo từ sử dụng Camus. "Bước xuống tàu" hay "embarqué" không đồng nghĩa với "dấn thân" hay "engagé". Dấn thân có thể là hành động hào hiệp của một kẻ ngoại cuộc giữa đường thấy sự bất bình mà tha. Nhưng dấn thân đôi khi cũng nghĩa là do quá nhiệt tình hay đam mê mù quáng nên trở thành một kẻ cuồng tín, dù là cho một tín ngưỡng, chủ nghĩa hay ý thức hệ. Nhìn vào những cuộc tranh chấp, chém giết nhau đang còn diễn ra giữa các bè nhóm, phe phái trong cùng một cộng đồng,cùng một dân tộc hay cùng một tôn giáo, ta thấy hành động dấn thân có thể dẫn đến hậu quả tai hại như thế nào. Còn bước xuống tàu, trái lại theo Camus, một thái độ khiêm tốn hơn chỉ nên coi như là thi hành một nghĩa vụ quân sự (ll s'agit plutôt d'un service militaire). Điều này có nghĩa là người cầm bút ngày nay phải coi mình như đang trên một chuyến tàu gian nan gặp phong ba bão tố nên phải biết tham dự, đóng góp vào nỗ lực chung với khách đồng hành để giũ cho con tàu chao đảo khỏi bị chìm đắm. Là nhà văn, Camus cho rằng ông phải đứng ra đảm nhiệm hai nghĩa vụ rất khó khăn không dễ gì hoàn tất. Đó là : " Không dùng ngòi bút để phục vụ cho những kẻ ôm tham vọng làm lích sử. mà là phục vụ cho những kẻ phải hứng chịu lịch sử. Cho dù có mắc khiếm khuyết nào, thì sự cao quí của nghề viết văn phải đặt nền móng trên hai cam kết không dễ gì tôn trọng: không được dối trá về những điều mình được biết, và cưỡng lại sự áp bức. ( Il ne peut se mettre au service de ceux qui font l'histoire: il est au service de ceux qui subissent l' histoire. ... La noblesse de notre métier s'enracine dans deux engagements difices à maintenir: mentir sur ce que l'on sait et la résistance à l'oppression. - Discours de Suede. ESSAIS, Biblio. La Pléiade, p. 1072).

Muốn làm tròn hai nghĩa vụ khó khăn này, người nghệ sĩ nói chung, nhà văn nói riêng, cũng phải đáp ứng hai đòi hỏi khắt khe không kém. Trước nhất là phải quí trọng chữ nghĩa, tôn trọng sự trong sạch của chữ nghĩa. Các từ càng mang ý nghĩa cao đẹp bao nhiêu, ta càng phải đối xử thận trọng bấy nhiêu. Còn như sử dụng chúng một cách tùy tiện, ta dễ làm chúng bị hoen ố, trở thành cô gái điếm, chẳng khác chi gã sở khanh dùng lời đường mật gạt gẫm Thúy Kiều, để đẩy tấm thân ngà ngọc của nàng vào chốn thanh lâu cả. Tôi dùng hai chữ gái điếm để tạm dịch tù prostituer, Camus đã không ngại sử dụng hai lần trong bài viết của ông. " Ta không được biến vô tội vạ các từ thành những cô gái điếm. Ngày nay giá trị của từ tự do lại là giá tri bị làm hoen ô nhiều nhất" (On ne prostitue pas impunément les mots. La valeur la plus calomniée aujourd'hui est certainement la valeur de la liberté". Camus, ESSAIS, Discours de la Suède, Bibliothèque La Pléiade, p.1082). Rồi chỉ vài trang sau đó ông lại viết: " Chỉ khi nào từ tự do được trở thành mối hiểm họa, khi ấy nó mới hết mang thân phận gái điếm" ( Si la liberté est devenue dangereuse, alors elle est en passe de ne plus être prostituée. Sdd, tr. 1095). 

Với nhận định này, ý Camus muốn nhắc nhở ta rằng hai chữ tự do không phải là loại quà cho không biếu không, mà người thực sự yêu tự do đôi khỉ phải trả giá bàng chấp nhận bị đàn áp, tù đày của bản thân. Đó là trường hợp của các nhà đấu tranh tù nhân lương tâm tại các nước dưới chế độ độc tài toàn trị. Phát biểu trên cũng khiến ta không khỏi liên tưởng tới hai chữ tự do đã được một số người Việt ở hải ngoại suy diễn và sử dụng như thế nào. Được đến sống tại một quốc gia dân chủ tự do, họ cho rằng thế là từ nay mình có quyền tha hồ tùy tiện ăn nói. Ưa ai thì bốc lên tới trời xanh; còn ghét ai không tiếc lời nhục mạ. Thậm chí họ còn bóp méo sự thật, tung ra những nguồn tin thất thiệt, biến chúng thành những thuyết âm mưu nhằm gây chia rẽ, khích động hận thù, đôi khi còn nuôi dưỡng hận thù giữa một tập thể, một cộng đồng, thậm chi một dân tộc trong cùng một đất nước. Đám người này đâu có hiểu rằng tự do không phải là thứ quà tặng theo kiểu tình cho không biếu không, mà phải là biểu hiện cho sự trưởng thành của đời sống tâm linh nên bao giờ cũng cần được đi kèm với tinh thần trách nhiệm. Bởi vậy chỉ thực sự yêu tự do những ai đôi khi dám chấp nhận trả giá bằng chính bản thân mình. Thí dụ như những đấu tranh tù nhân lương tâm chẳng hạn.

Nhưng giữ cho ngòi bút được liêm khiết mới chỉ là điều kiện ắt có, chưa phải đã đầy đủ. Người cầm bút liêm khiết còn phải biết tránh để đừng sa vào một vài cái bẫy, để công trình nghệ thuật của họ không biến thành một thứ xa xỉ phầm dối trá (un luxe mensonger). Trước hết, theo Camus, chúng ta nay đã bước vào kỷ nguyên của xã hội mại bản (societe marchande),hay xã hội tiêu thụ ngày nay. Do đó mọi sản phẩm, kể cả sản phẩm văn hóa, đều có thể trở thành món hàng tiêu thụ chạy theo sở thích của khách hàng. Điều quan trọng với họ không phải là sáng tác có giá trị văn hóa, mà là các sản phẩm được giới tiêu thụ ưa thích. Với họ, miễn sao tên tuổi hay tác phẩm của mình được nhiều người nhắc đến hay biết đến mới là quan trọng. Họ không biết rằng thành công như thế chi làm chết đi con người nghệ sĩ chân chính nơi họ. Bởi vậy càng gặt hái được thành công về mặt danh vọng, tiền tài trên thị trường chữ nghĩa bao nhiêu , nhà văn càng đánh mất bản chất con người nghệ sĩ chân chính nơi mình, với kết quả là anh ta chỉ tung ra thị trường những sáng tác thuộc loại xa xỉ phẩm dối trá.

Bên cạnh cái bẫy do danh vọng tiền tài giăng ra. nhà văn cũng có thể sa vào một cái bẫy khác : Đó là uốn cong ngòi bút để dối trá, mua chuộc quyến thế, và bỏ qua những đòi hỏi chính đáng của quần chúng, Thí dụ như máy câu thơ của Tố Hữu bày tỏ lòng thương tiếc Staline được tôn lên hàng vĩ nhân: " Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một thương ông, thương mười" Đây chỉ là những câu thơ đầy dối trả nhằm phục vụ bạo quyền để mong hưởng được chút ân huệ. Như chúng ta đều biết, lich sử cho thấy Staline chỉ là một nhà độc tài khát máu đã sát hại hàng chục triệu nông dân Nga hoặc đày đọa họ trong các goulag hay trại tù tập trung. Lẽ ra Tố Hữu nên dành mấy câu thơ bày tỏ lòng thương tiếc ấy cho hàng chục triệu nông dân Nga đã là nạn nhân trong các cuộc thanh trừng của Staline mới phải.

Kết

Ngày 4 -1 -1960 Camus đã bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi khi ông mới có 47 tuổi. Cái chết bất ngờ và phi lý ấy không vì thế làm cho tên tuổi ông ngày một chìm trong quên lãng. Trái lại, các biến cố thời sự đang dồn dập diễn ra đã cho thấy tính hiện đại hơn bao giờ của thông điệp ông để lại cho chúng ta qua toàn bộ các tác phẩm của ông. Ta có thể tóm lược nội dung thông điệp ấy qua mấy điểm chính như sau: Cuộc sống trên thế gian không phải bao giờ cũng là một góc thiên đường như khu phố bình dân Belcourt ông đã từng được sống từ thời niên thiếu cho tới khi trưởng thành. Trái lại, các biến cố thiên tai cũng như các biến động lịch sử hiện nay, như bệnh dịch Covid-19 hay hiểm họa một cuộc thế chiến nguyên tử có thể xảy ra, đã làm ta nay không còn cái cảm giác an toàn của du khách trên tàu trong một chuyến du lịch nhàn hạ. Trái lại, con tàu thế gian của chúng ta nay đã trở thành một thứ con tàu say ( bateau ivre) chuếnh choáng điên đảo giữa một vùng trời đầy bão tố. Trong hoàn cảnh đó, Camus cho rằng mình cũng như mọi hành khách trên tàu, phải đóng góp vào nỗ lực chung để giữ cho con tàu khỏi bị dắm chìm. Nhưng chỉ với tư cách là người đã bước xuống tàu thôi. Đừng có tìm cách giành giựt tay lái để được làm người cầm lái vĩ đại khiến con tàu càng thêm dễ bị lật chìm. Bởi vậy, trong cương vị một nhà văn, Camus cho rằng vai trò của mình không phải đứng về phe những kẻ muốn làm nên lịch sử, mà về phía những người phải chịu đựng lịch sử.
Đây là một cuộc chiến đấu trường kỳ, vì con tàu thế gian không ngớt phải đương đầu với đủ mọi tai họa do đủ loại vi khuẩn gây ra. Mà loại vi khuẩn độc hại nhất lại do nơi con người, hay đúng ra là nơi những con người nuôi tham vọng cải tạo thế giới gây ra. Phải chăng đó chính là thông điệp Camus muốn nhắn nhủ và nhắc nhở chúng ta trong lời kết cuốn La Peste của ông:" Có thể sẽ có ngày, cho sự bất hạnh cũng như cho sự học hỏi của con người, dịch hạch sẽ đánh thức giậy những con chuột giúp họ được tới chết trong một chốn đô thi hạnh phúc." ( Peut - être, le jour viendrait où, pour le malheur et l'enseignement des hommes, la peste réveillerait ses rats et les enverraient dans une cité heureuse. LA PESTE, Folio, p. 279). Chôn đô thị hạnh phúc, với Camus và theo tôi hiểu, chính là cõi mà ở đó hết thảy mọi người, bất kể sang hèn, người chính trực kẻ bất lương, đều được dành cho một chỗ làm nơi ngàn thu an nghỉ.

Hàn Lâm Viện Thụy Điển quả đã không lầm để chọn mặt gửi vàng khi trao tặng cho Camus giải thưởng văn học Nobel cao quý này, như là để tưởng thưởng một công trình văn học " đã đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt cho lương tâm loài người của thời đại chúng ta". (Pour récompenser une oeuvre "qui met en lumière les problèmes se posant de nos jours à la conscience des hommes.) Thời đại của chúng ta không chỉ có là thế kỷ 20 của Camus, mà còn là thời đại ngay bây giờ, khi mà những con vi khuẩn thuộc loại bành trướng lãnh thổ hay muốn làm bá chủ thế giới đang ngo ngoe đòi ngóc cổ dậy.


( Bắt đầu hạ bút viết ngày 10-9-2022, viết xong ngày 8-11-2022)

Nguyễn Bảo Hưng

Xem toàn bài:



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét