Nơi vùng quê Mai Phụ, Thạch Hà thuộc Hà Tĩnh, có người thiếu nữ không chồng mà lại có con. Tục truyền, người đàn bà nghèo khó nầy đến xem nấu muối, bị một làn khói muối ngũ sắc bao lấy mình rồi mang thai. sanh ra đứa con có nước da đen đúa đặt tên là Mai Thúc Loan. Mai Thị và con là Mai Thúc Loan nghèo lắm, bà phải đi làm mướn cho nhà giàu và kiếm củi nuôi con.
Đã thế, cậu bé lại chịu tiếng xấu là con không cha và nước da đen sạm xấu xí. Nhưng Mai Thúc Loan cũng sớm bộc lộ thiên tư thông minh, sáng ý kỳ lạ và có sức khỏe tuyệt vời. Lớn lên, Mai Thúc Loanphải làm lụng, lo toan giúp mẹ đủ việc. Chú bé hết đi làm mướn cho bọn hào phú lại theo mẹ vào rừng kiếm củi.
Rồi một tai nạn khủng khiếp xảy ra giữa buổi hai mẹ con đi kiếm củi trong rừng sâu. Khi nghe tiếng kêu thét của mẹ, kịp đến thì mẹ đã chết gục bên vũng máu cạnh một con hổ lớn đang gầm gừ, quần đảo cán xé man rợ. Hờn căm ngút trời, Mai Thúc Loan xông vào đánh nhau với mãnh thú, buộc con vật đang say mồi, hung tợn phải bỏ chạy.
Từ đó, Mai Thúc Loan sống cuộc đời mồ côi, cày thuê ở mướn cho các hộ trong làng. Nhà nghèo, Mai Thúc Loan không được học hành mà chỉ học lõm để biết chữ, hiểu nghĩa sách. Đến khi khôn lớn trưởng thành, Mai Thúc Loan là một chàng trai có sức khỏe phi thường. Thúc Loan là đô vật lừng danh, từng ăn giải cạn ở nhiều nơi (Không ai dám vào thi đấu) Theo phường săn học hỏi rồi trở thành thợ săn lành nghề, nhiều lần Thúc Loan giết được chúa sơn lâm khiến dân trong vùng khâm phục. Vì vậy, mọi người suy tôn Mai Thúc Loan làm chức "Đầu phu", thủ lĩnh quân sự địa phương của làng.
Châu Loan ngày ấy luôn bị giặc Chà Và (Java), Mã Lai cướp phá, nhất là ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ. Đặc biệt, nạn cống " quả lệ chi" (quả vải) là một gánh nặng khôn cùng đối với người dân Hoan Châu.? (*)
Nguyên do, ở Trường An, vua Đường có một nàng ái phi, thường gọi là Dương Quý Phi nhan sắctuyệt vời mà tính tình cũng thật thất thường. Dương Quý Phi thích ăn quả lệ chi xinh xắn, chỉ ở An Nam mới có.? (**)
Mùa vải năm Nhâm ngọ (722), Mai Thúc Loancùng đoàn phu phải gánh vải đi nộp cống. Đoàn người gánh vải đầm đìa mồ hôi mà vẫn lê từng bước chân trên đường. Gần trưa, Mai Thúc Loan cho mọi người nghỉ chân ở bên rừng. Cái khát cháy cổ hành hạ đoàn phu. Một dân phu có tuổi bứt lấy một quả vải ăn cho đỡ khát. Quả vải chưa kịp đưa lên miệng đã bị một tên lính Đường đi áp tải xông tới, vung cán mã tấu đánh vào đầu. Không thể dằn được, khi tên lính Đường lần nữa định đánh ông già, thì hắn đã bị Mai Thức Loan đánh chết. Sự việc xảy ra nhanh như chớp. Bọn giặc cậy có binh khí hò hét vung đao, kiếm xông vào Mai Thúc Loan. Nhưng những người dân phu theo lệnh Mai Thúc Loan, đã rút đòn gánh chống lại. Lũ giặc không địch nỗi đoàn dân phu đều phải đền tội.
Đánh tan lũ giặc Đường trong một cơn phẫn nộ, Mai Thúc Loan lập tức thổi bùng khí thế vụ bạo động thành một cuộc dấy nghĩa. Vị thủ lĩnh trẻ được tôn thành vị anh hùng, đã hiệu triệu trăm họ hưởng ứng nghĩa lớn và chọn Rú Đụn, còn gọi là Hùng Sơn làm căn cứ. Không để cho giặc rảnh tay, Mai Thúc Loan quyết định ra quân trước, đánh thẳng vào Châu trị (nơi đặt bộ máy của một châu) mở rộng địa bàn Hoan Châu cho cuộc khởi nghĩa. Mai Thúc Loan đã phát hịch kể tội giặc Đường và kêu gọi mọi người Việtđứng lên gìn giữ non sông. Từ căn cứ Hùng Sơn, Mai Thúc Loan mở rộng địa bàn, xây thành Vạn An.
Là vùng rừng núi rậm rạp nằm cạnh sông Lam ở khúc hiểm sâu. Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm, đóng đại bản doanh của nghĩa quân. Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét. Đấy là thành Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ dựa; phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ lương thực, vũ khí; phía ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở cạnh sườn; chung quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào thiên nhiên. Bao quanh khu trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn trại nương tựa lẫn nhau: Biểu Sơn (hình quả bầu), bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân thủy bộ.
Từ đây, tìm cách liên kết với các thủ lĩnh và nhân dân các miền núi, với Champa để có thêm lực lượng chống quân Đường. Trước khi tiến đánh phủ đô hộ, ngoài Giao Châu, Mai Thúc Loan được quân dân tôn phong lên ngôi Hoàng đế gọi là Mai Hắc Đế (vua đen họ Mai). Và, chỉ trong một trận ác chiến, Mai Thúc Loan đã chiếm được phủ thành Tống Bình (Hà Nội) , đuổi tên quan đô hộ Quách Sở Khách tháo chạy về nước, lấy lại giang sơn.
Đuổi giặc Đường ra khỏi đất nước, người dân khắp nơi nô nức theo Mai Hắc Đế, lực lượng nghĩa quân tới hàng chục vạn người. Nhưng lúc này nhàĐường còn mạnh. Vua Đường huy động 10 vạn quân ồ ạt theo đường hiểm đánh ập vào thành Vạn An. Không đương nổi đội quân xâm lược hung hãn, Mai Hắc Đế phải rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất đến nay không có tài liệu nào ghi ngày mất của Mai Hắc Đế. Nghĩa quân tan vỡ. Quân Đường tàn sát nhân dân ta vô cùng dã man, xác người chết đắp thành gò cao. Tội ác tầy trời này của giặc chỉ làm tăng thêm làng căm thù của nhân dân nước Việt. Hiện nay ở thung lũng Hùng Sơn (Rú Đụn) còn lăng mộ cha con Mai Hắc Đế. Dân chúng nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ, đề thơ ca tụng người anh hùng:
Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành lũy khói hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Trăm trận Lý Đường phục võ công.
Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn,
Hùng Sơn gió lặng, khói lang không.
Đường đi cống vải từ đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
Từ thời điểm đánh chiếm châu Hoan lên ngôi vua, củng cố lực lượng, Mai Thúc Loan đã giành lại toàn bộ đất nước và giữ vững nền độc lập trong 10 năm (713-722) , chớ không phải cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo nổ ra và bị dập tắt ngay trong cùng một năm 722 như các tài liệu phổ biến hiện nay?
Tương truyền, con trai thứ ba của ông là Mai Thúc Huy lên ngôi Hoàng Đế tức Mai Thiếu Đế và tiếp tục chống trả các cuộc tấn công của nhà Đường tới năm 723
Tương truyền từ sau cuộc khởi nghĩa này, nhà Đường không bắt dân An Nam đô hộ phủ nộp cống vải quả hằng năm nữa
Lăng mộ vua Mai Hắc Đế
(*) Việc gánh vải cống nạp cho vua Đường là một chi tiết không chính xác?(Dưới đây chỉ là 1 giả thuyết)
Một là, vùng Hoan Châu từ xưa đến nay chưa bao giờ có vải ngon. Vải ở đây hạt to, cùi mỏng rất chua, vậy làm sao có thể làm vật phẩm tiến vua được. Chưa tìm ra được tài liệu nào nói rằng ngày xưa vải của Hoan Châu ngon nổi tiếng đến mức cáchậu, phi nhà Đường cũng phải thèm, bắt phải cống nộp.
Hai là, từ Hoan Châu sang Kinh đô Tràng An nhà Đường, đường đi hàng vạn dặm, gánh vải đi bộ mấy tháng trời mới tới nơi. Mà vải chín lại rất mau hỏng, ngày hôm sau đã thối, làm sao mà đem đến tận Kinh đô Tràng An bằng hình thức gánh đi bộ.
Tóm lại, Mai Hắc Đế là một vị anh hùng dân tộc. Vào thế kỷ thứ VIII, do chính sách cai trị hà khắc, tàn bạo của các quan lại nhà Đường, ông đã đứng lên vận động nhân dân khởi nghĩa giành độc lập về cho dân tộc. Cuộc khởi nghĩa của ông, cũng như của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế trước ông và của Phùng Hưng, của cha con họ Khúc sau ông, phản ánh ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc ta, quyết không chịu đem thân làm nô lệ cho ngoại bang.
(**) Các tác giả khi viết về Mai Hắc Đế thường đưa chi tiết do Dương Quý Phi thèm quả vải (Trung Quốc gọi là lệ chi) nên vua Đường Minh Hoàng bắt An Nam phải sang cống vải.??? Thật ra thì Dương Quý Phi về làm Phi của Đường Minh Hoàng vào năm 745, năm đó bà ta mới 22 tuổi. Như vậy, suy ra bà ta sinh vào năm 723. Mai Hắc Đế đã mất trước khi Dương Quý Phi được sinh ra ở trên đời (722), vậy làm sao có chuyện cống vải để phục vụ ý thích của bà Phi này mà đó lại là lý do nổ ra cuộc khởi nghĩa của Mai ThúcLoan! (theo Lê Mạnh Chiến)
Chú Thích:
Theo ý kiến của chúng tôi: Việc cống vải có thể có, nhưng không thể cho phu khuân vác từ Châu Hoan đến tận Trường An kinh đô Nhà Đường, mà chỉ đến một trạm nào đó như ở Long Biên hay vùng Lĩnh Nam (Quảng Đông) chẳng hạn
Theo ý kiến của chúng tôi: Việc cống vải có thể có, nhưng không thể cho phu khuân vác từ Châu Hoan đến tận Trường An kinh đô Nhà Đường, mà chỉ đến một trạm nào đó như ở Long Biên hay vùng Lĩnh Nam (Quảng Đông) chẳng hạn
Bối Cảnh Lịch Sử (trích Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim)
Năm giáp-thân (264) là năm Nguyên-hưng nguyên-niên, vua nhà Ngô lại lấy đất Nam-hải, Thương-ngô và Uất-lâm làm Quảng-châu 廣州, đặt châu-trị ở Phiên-ngung 番禺; lấy đất Hợp-phố, Giao-chỉ, Cửu-chân, và Nhật-nam làm Giao-châu 交州, đặt châu-trị ở Long-biên 龍編. Đất Nam-Việt của nhà Triệu ngày trước thành ra Giao-châu và Quảng-châu từ đấy.
Đất Giao-châu đời bấy giờ cứ loạn-lạc mãi, những quan-lại nhà Ngô thì thường là người tham-tàn, vơ-vét của dân, bởi vậy người Giao-châu nổi lên giết quan thái-thú đi rồi về hàng nhà Ngụy. Năm ất dậu (256) nhà Tấn 晉cướp ngôi nhà Ngụy, rồi sai quan sang giữ Giao-châu. Nhà Ngô saiĐào Hoàng 陶璜 sang lấy lại. Đào Hoàng được phong là Giao-châu-mục. Năm canh-tí (280) nhà Ngô mất nước. Đào Hoàng về hàng nhà Tấn, được giữ chức cũ. Đất Giao-châu từ đó thuộc về nhà Tấn. Những quan lại sang cai-trị cũng như quan-lại đời nhà Hán, nhà Ngô, thỉnh-thoảng mới gặp được một vài người nhân-từ tử-tế, thì dân-gian mới được yên-ổn, còn thì là những người tham-lam, độc-ác, làm cho nhân dân phải lầm-than khổ-sở. Cũng lắm khi bọn quan-lại có người phản-nghịch đánh giết lẫn nhau, làm cho trong nước cứ phải loạn-lạc luôn.
Trong thời Nam Bắc-triều bên Tàu, đất Giao-châu không được mấy khi yên-ổn, vì quan Tàu sang cai-trị có nhiều người thấy bên Tàu loạn, cũng muốn tìm cách để độc-lập, bởi vậy quan lại cứ giết lẫn nhau.
Hình ảnh minh hoạ Lý Nam Đế
Đời nhà Lương lại sai Tiêu-Tư 蕭諮sang làm thứ-sử Giao-châu. Tiêu Tư là một người tàn-bạo, làm cho lòng người ai cũng oán-giận. Bởi vậy ông Lý Bôn 李賁mới có cơ-hội mà nổi lên, lập ra nhà Tiền Lý 前李. Năm Tân-dậu (541) là năm Đại-đồng 大同thứ 7 đời vua Vũ-đế nhà Lương 梁武帝, ở huyện Thái-Bình có một người tên là Lý Bôn 李賁huý là Bí, tài kiêm văn võ, thấy nước mình trong thì quan lại Tàu làm khổ, ngoài thì người Lâm-Ấp cướp phá, bèn cùng với những người nghĩa-dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư 蕭諮về Tàu, rồi chiếm giữ lấy thành Long-Biên 龍編. Lý Bôn tự xưng là Nam-Việt Đế 南越帝, đặt quốc-hiệu là Vạn-Xuân 萬春,niên-hiệu là Thiên-Đức 天德, rồi phong cho Triệu Túc 趙肅làm thái-phó... Năm ất-sửu (545) vua nhà Lương sai Dương Phiêu 楊摽sang làm thứ-sử Giao-châu, và sai Trần Bá Tiên 陳霸先đem quân sang đánh Nam-Việt. Lý Nam-Đế thua phải bỏ thành Long-biên. Sau đó Lý Nam-đế bèn giao binh quyền lại cho tả-tướng quân Triệu quang Phục 趙光復chống nhau với quân nhà Lương rồi trở về Khuất-liêu.
Triệu quang Phục là con quan thái-phó Triệu Túc 趙肅người ở Châu-diên (Vĩnh-tường, tỉnh Vĩnh-yên) theo cha giúp Lý Nam-đế lập được nhiều công, nay đem quân chống-cự với nhà Lương được ít lâu, rồi sau thấy thế quân Tàu còn mạnh, địch không nổi, bèn rút quân về đầm Dạ-Trạch 夜澤.
Dạ-Trạch là chỗ đồng lầy, chung quanh cỏ mọc như rừng, ở giữa có bãi cát làm nhà ở được. Triệu quang Phục vào ở đấy ngày nấp ẩn, tối thì cho lính chở thuyền độc-mộc ra đánh quân của Trần bá Tiên, cướp lấy lương-thực về nuôi quân-sĩ. Trần bá Tiên đánh mãi không được. Người thời bấy giờ gọi Triệu quang Phục là Dạ-trạch vương 夜澤王.
Năm Mậu-Thìn (548) Lý Nam-đế ở trong Khuất-liêu phải bệnh mất, Triệu quang Phục ở Dạ-trạch được tin ấy bèn xưng là Việt-vương. Bấy giờ bên Tàu có loạn Hầu Cảnh 侯景, vua nhà Lương phải triệu Trần bá Tiên về để người tì-tướng là Dương Sàn 楊孱ở lại chống cự với Triệu quang Phục. Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành Long-biên.Năm ất-hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt-vương, Lý thiên Bảo anh của Lý Nam Đế, sang Lào lánh giặc Lương mất, không có con, binh-quyền về cả Lý Phật Tử. Đến năm đinh-sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về chống với Triệu Việt-vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin chia đất giảng hòa. Triệu Việt vương nghĩ tình họ Lý, cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử.
Lý Phật Tử đóng ở Ô-diên 烏鳶(nay ở vào làng Đại-mỗ, thuộc huyện Từ-liêm, tỉnh Hà-đông). Triệu Việt-vương đóng ở Long-biên, lấy bãi Quân-thần 君臣洲làm giới hạn (bãi ấy thuộc làng Thượng-cát, huyện Từ-liêm). Triệu Việt-vương lại gả con gái cho Lý Phật Tử để tỏ tình hiếu hoà với nhau. Nhưng Phật Tử vẫn có ý muốn thôn-tính, bởi vậy bề ngoài tuy là hòa hiếu, nhưng bề trong vẫn sửa-soạn để đánh lấy Long-biên.
Năm Tân Mão (571), Phật Tử bất thình-lình đem quân đánh Triệu Việt-vvơng. Triệu Việt-vương thua chạy đến sông Đại-nha 大鴉(nay ở huyện Đại-an, tỉnh Nam-định), nhảy xuống sông tự tận.
Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt-vương, mới lập đền thờ ở chỗ sông Đại-nha. Nay còn có đền thờ ở làng Đại-bộ, gần huyện Đại-an.
Lý Phật Tử lấy được thành Long-biên rồi, xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong-châu (thuộc huyện Bạch-hạc, tỉnh Vĩnh-yên), sai Lý đại Quyền 李大權giữ Long-biên và Lý-phổ Đỉnh 李普鼎giữ Ô-diên.
Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở Nam-việt thì vua Văn-đế nhà Tùy 隋文帝đã gồm cả Nam Bắc, nhất-thống nước Tàu. Đến năm nhâm-tuất (602) vua nhà Tùy sai tướng là Lưu Phương 劉方đem quân 27 doanh sang đánh Nam-việt.
Lưu Phương sai người lấy lẽ họa phúc để dụ Lý Phật Tử về hàng. Hậu Lý Nam-đế sợ thế không địch nổi bèn xin về hàng.
Từ đấy đất Giao-châu lại bị nước Tàu cai-trị 336 năm nữa.
Trong thời gian này nổi lên các cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, Phùng Hưng…
Năm nhâm-tuất (722) là năm Khai-nguyên thứ 10 về đời vua Huyền-tông 玄宗nhà Đường, ở Hoan-châu có một người tên là Mai thúc Loan 梅叔鸞nổi lên chống cự với quân nhà Đường. Mai thúc Loan là người huyện Thiên-lộc, tức là huyện Can-lộc, tỉnh Hà-tĩnh bây giờ. Mai Thúc Loan trong sử nhà Đường gọi là Mai Huyền Thành mặt mũi đen sì, sức-vóc khỏe-mạnh, thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn-bạo, dân-gian khổ-sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm giặc-giã, ông ấy bèn chiêu-mộ những người nghĩa-dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ ở đất Hoan-châu (nay thuộc huyện Nam-đường tỉnh Nghệ-an) rồi xây thành đắp lũy, xưng hoàng-đế, tục gọi là Hắc-đế 黑帝. Mai Hắc-đế lại kết hiếu với nước Lâm-ấp và nước Chân-lạp để làm ngoại viện.
Vua nhà Đường sai quan nội-thị là Dương tư Húc 楊思拗đem quân sang cùng với quan Đô-hộ là Quang sở Khách 光楚客đi đánh Mai Hắc-Đế. Hắc-Đế thế yếu chống không nổi phải thua chạy, được ít lâu thì mất.
Nay ở núi Vệ-sơn 衞山huyện Nam-đường, tỉnh Nghệ-an, còn có di-tích thành cũ của vua Hắc-đế, và ở xã Hương-lãm, huyện Nam-đường còn có đền-thờ.
Xem tiếp:
1/ Hùng Ca Sử Việt 1 - Lời Mở Đầu Phần 1
2/ Hùng Ca Sử Việt 1: Đồng Bào
3/Hùng Ca Sử Việt 1: Phù Đổng Thiên Vương
4/Hùng Ca Sử Việt 1:Tiếng Hờn Sông Hát
5/Hùng Ca Sử Việt 1: Nhuỵ Kiều Tướng Quân
6/Hùng Ca Sử Việt 1: Mai Hắc Đế - Lý Nam Đế
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn
Triệu quang Phục là con quan thái-phó Triệu Túc 趙肅người ở Châu-diên (Vĩnh-tường, tỉnh Vĩnh-yên) theo cha giúp Lý Nam-đế lập được nhiều công, nay đem quân chống-cự với nhà Lương được ít lâu, rồi sau thấy thế quân Tàu còn mạnh, địch không nổi, bèn rút quân về đầm Dạ-Trạch 夜澤.
Dạ-Trạch là chỗ đồng lầy, chung quanh cỏ mọc như rừng, ở giữa có bãi cát làm nhà ở được. Triệu quang Phục vào ở đấy ngày nấp ẩn, tối thì cho lính chở thuyền độc-mộc ra đánh quân của Trần bá Tiên, cướp lấy lương-thực về nuôi quân-sĩ. Trần bá Tiên đánh mãi không được. Người thời bấy giờ gọi Triệu quang Phục là Dạ-trạch vương 夜澤王.
Năm Mậu-Thìn (548) Lý Nam-đế ở trong Khuất-liêu phải bệnh mất, Triệu quang Phục ở Dạ-trạch được tin ấy bèn xưng là Việt-vương. Bấy giờ bên Tàu có loạn Hầu Cảnh 侯景, vua nhà Lương phải triệu Trần bá Tiên về để người tì-tướng là Dương Sàn 楊孱ở lại chống cự với Triệu quang Phục. Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành Long-biên.Năm ất-hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt-vương, Lý thiên Bảo anh của Lý Nam Đế, sang Lào lánh giặc Lương mất, không có con, binh-quyền về cả Lý Phật Tử. Đến năm đinh-sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về chống với Triệu Việt-vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin chia đất giảng hòa. Triệu Việt vương nghĩ tình họ Lý, cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử.
Lý Phật Tử đóng ở Ô-diên 烏鳶(nay ở vào làng Đại-mỗ, thuộc huyện Từ-liêm, tỉnh Hà-đông). Triệu Việt-vương đóng ở Long-biên, lấy bãi Quân-thần 君臣洲làm giới hạn (bãi ấy thuộc làng Thượng-cát, huyện Từ-liêm). Triệu Việt-vương lại gả con gái cho Lý Phật Tử để tỏ tình hiếu hoà với nhau. Nhưng Phật Tử vẫn có ý muốn thôn-tính, bởi vậy bề ngoài tuy là hòa hiếu, nhưng bề trong vẫn sửa-soạn để đánh lấy Long-biên.
Đền Độc Bộ thờ Triệu Việt Vương xã Yên Nhân
Năm Tân Mão (571), Phật Tử bất thình-lình đem quân đánh Triệu Việt-vvơng. Triệu Việt-vương thua chạy đến sông Đại-nha 大鴉(nay ở huyện Đại-an, tỉnh Nam-định), nhảy xuống sông tự tận.
Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt-vương, mới lập đền thờ ở chỗ sông Đại-nha. Nay còn có đền thờ ở làng Đại-bộ, gần huyện Đại-an.
Lý Phật Tử lấy được thành Long-biên rồi, xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong-châu (thuộc huyện Bạch-hạc, tỉnh Vĩnh-yên), sai Lý đại Quyền 李大權giữ Long-biên và Lý-phổ Đỉnh 李普鼎giữ Ô-diên.
Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở Nam-việt thì vua Văn-đế nhà Tùy 隋文帝đã gồm cả Nam Bắc, nhất-thống nước Tàu. Đến năm nhâm-tuất (602) vua nhà Tùy sai tướng là Lưu Phương 劉方đem quân 27 doanh sang đánh Nam-việt.
Lưu Phương sai người lấy lẽ họa phúc để dụ Lý Phật Tử về hàng. Hậu Lý Nam-đế sợ thế không địch nổi bèn xin về hàng.
Từ đấy đất Giao-châu lại bị nước Tàu cai-trị 336 năm nữa.
Trong thời gian này nổi lên các cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, Phùng Hưng…
Năm nhâm-tuất (722) là năm Khai-nguyên thứ 10 về đời vua Huyền-tông 玄宗nhà Đường, ở Hoan-châu có một người tên là Mai thúc Loan 梅叔鸞nổi lên chống cự với quân nhà Đường. Mai thúc Loan là người huyện Thiên-lộc, tức là huyện Can-lộc, tỉnh Hà-tĩnh bây giờ. Mai Thúc Loan trong sử nhà Đường gọi là Mai Huyền Thành mặt mũi đen sì, sức-vóc khỏe-mạnh, thấy quan nhà Đường làm nhiều điều tàn-bạo, dân-gian khổ-sở, lại nhân lúc bấy giờ lắm giặc-giã, ông ấy bèn chiêu-mộ những người nghĩa-dũng, rồi chiếm giữ lấy một chỗ ở đất Hoan-châu (nay thuộc huyện Nam-đường tỉnh Nghệ-an) rồi xây thành đắp lũy, xưng hoàng-đế, tục gọi là Hắc-đế 黑帝. Mai Hắc-đế lại kết hiếu với nước Lâm-ấp và nước Chân-lạp để làm ngoại viện.
Vua nhà Đường sai quan nội-thị là Dương tư Húc 楊思拗đem quân sang cùng với quan Đô-hộ là Quang sở Khách 光楚客đi đánh Mai Hắc-Đế. Hắc-Đế thế yếu chống không nổi phải thua chạy, được ít lâu thì mất.
Nay ở núi Vệ-sơn 衞山huyện Nam-đường, tỉnh Nghệ-an, còn có di-tích thành cũ của vua Hắc-đế, và ở xã Hương-lãm, huyện Nam-đường còn có đền-thờ.
Đền thờ Mai Hắc Đế
Xem tiếp:
1/ Hùng Ca Sử Việt 1 - Lời Mở Đầu Phần 1
2/ Hùng Ca Sử Việt 1: Đồng Bào
3/Hùng Ca Sử Việt 1: Phù Đổng Thiên Vương
4/Hùng Ca Sử Việt 1:Tiếng Hờn Sông Hát
5/Hùng Ca Sử Việt 1: Nhuỵ Kiều Tướng Quân
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét