LỜI DẪN
Chúng tôi – Bác sĩ Nguyễn Thanh Bình và Hoàng Xuân Thảo – hôm nay hân hạnh được ra mắt qúy vị một cuốn tiểu thuyết lịch sử nhan đề “Mỹ Nhân Tự Cổ Như Danh Tướng”.
Tên sách đã nói lên những nhân vật chính sẽ được đề cập tới là các giai nhân và các anh hùng, hào kiệt.
Nhưng thuộc thời đại nào? Chúng tôi nghĩ thời thế tạo ra anh hùng và ngược lại và như vậy thường là danh tướng xuất hiện trong một cuộc chiến tranh hơn là trong hoà bình. Giai nhân trong thời lửa khói cũng thường dễ gặp hơn nhiều nỗi truân chuyên và chịu những cảnh ngọc nát, hoa rơi.
Nghĩ vậy nên bối cảnh chúng tôi chọn là một thời kỳ hỗn loạn, rối ren trong lịch sử, thời kỳ mà đất nước bị chia ra làm ba bốn mảnh, có ba bốn vua chúa, đó là thời kỳ tranh chấp giữa vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn và anh em nhà Tây Sơn.
Nhan đề của cuốn tiểu thuyết lịch sử này lấy ra từ một bài thơ tứ tuyệt nhưng người đời thường chỉ nhớ có hai câu cuối là:
...Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạc đầu.
Để tìm ra trọn vẹn bài thơ chúng tôi đã cầu cứu giáo sư Phí Minh Tâm và bác sĩ Huỳnh Kim Giám là hai trong tứ trụ của nhóm Liêũ Trai 21 chuyên khảo luận và dịch thuật về thơ Đường với người chủ trương và phụ tá là bác sĩ Nguyễn Văn Bảo và dược sĩ Nguyễn Trọng Lộc. Diễn đàn LT21 theo ý tôi là nơi qúy vị muốn thưởng thức được tất cả những tinh túy của thơ Đường, diễn đàn vừa có sức thuyết phục qua các tài liệu rất hiếm qúy, vừa có sức hấp dẫn qua những lời bình luận sâu sắc và những bài thơ dịch tuyệt vời.
Theo hai vị học giả trên thì bài thơ có nhan đề là “Điệu Kim Phu Nhân” đã được trích dẫn trong cuốn Tuỳ Viên Thi Thoại của Viên Mai thời Khang Hy nhà Thanh, ghi chép lại những câu chuyện văn chương mà chính tác giả tai nghe, mắt thấy. Bài thơ tỏ lòng thương tiếc Kim phu nhân do người bạn là Triệu Diễm Tuyết cảm khái viết ra với ý an ủi người chồng đừng quá xót thương người bạn trăm năm. Kim phu nhân là vợ của nhà thơ Tra Vi Nhân ở Thiên Tân còn Triệu Diễm Tuyết là thiếp của tiến sĩ Đông Hoành.
Nguyên tác: Điệu Kim Phu Nhân
逝水韶華去莫留 Thệ thủy thiều hoa khứ mạc lưu
Bác sĩ Huỳnh Kim Giám có lời bình về bài thơ như sau:
Câu đầu nói về vẻ phù du, vô thường của cuộc đời. 逝水=thệ thủy là nước chảy; 韶華=thiều hoa là một thành ngữ dùng để chỉ tuổi thanh xuân. Câu thứ nhì khó hiểu hơn vì hai cặp 林下=lâm hạ và 風流=phong lưu không đi đôi với nhau nếu ta hiểu phong lưu như là một thành ngữ để tả lối sống hay lối cư xử, trừ khi Triệu Diễm Tuyết muốn cho ta hiểu rằng Kim phu nhân đã được chôn trong rừng, và thôi đừng tiếc thương nàng nữa. Đó là lý do cho chữ 漫=mạn ở đầu câu.
Có lý do gì đó để người đời chỉ chuyền tay hai câu cuối của một bài tứ tuyệt, và đó có thể vì hai thành ngữ 美人=mỹ nhân và 名將=danh tướng. Mỹ nhân và danh tướng giống nhau ở hai điểm: (i) họ là những người hiếm có trên đời; và (ii) họ để lại tiếng trên đời, không như đa số trong nhân gian. Nhưng nếu chỉ vì thế mà nhân loại chuyền tay nhau hai câu thơ đó thì không thực tiễn lắm, một phần vì không phải mỹ nhân và danh tướng nào cũng ... yểu tử.
Theo tôi từ quan trọng nhất trong hai câu đó là động từ 許=hứa. Mỹ nhân và danh tướng cũng không thể hứa được việc trường thọ vì hai câu thơ đầu đã nói rằng đời vô thường và phù du.
Tựa đề nguyên thủy của bài thơ là 和查为仁悼亡诗=Họa Tra Vi Nhân điệu vong thi, để họa bài thơ Điệu vong cơ [thơ khóc người thiếp quá cố] của người bạn trong làng thơ Tra Vi Nhân. Trừ khi ta biết bài Điệu vong cơ là thế nào thì ta chỉ có thể đoán rằng Triệu Diễm Tuyết làm bài 悼=điệu này không phải để tự trấn an mà để họa thơ an ủi người bạn rằng người thiếp tên Kim không thể hứa sẽ sống trăm năm đầu bạc với chồng.
Còn sau đây là ý kiến của giáo sư Phí Minh Tâm:
Hai câu thơ:
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng 美人自古如名將
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu. 不許人間見白頭
từng được thảo luận trên diễn đàn Viêt Học gần 20 năm trước đây. Một quan điểm cho là hai câu này được trích ra từ bài Tiêu Hồn Hải Đường 消魂海棠 mà tác giả là Triệu Diễm Tuyết 趙豔雪 đời nhà Thanh. Quan điểm khác cho là từ một bài thơ cũng của Triệu Diễm Tuyết trong Tùy Viên Thi Thoại 隨園詩話 của Viên Mai. Anh Giám xác nhận nguồn gốc thứ hai của 2 câu thơ nổi tiếng này.
Viên Mai đời Thanh chép lại những chuyện văn chương cùng thời mà chính tác giả mắt thấy tai nghe. Khả năng Tuỳ Viên Thi Thoại là xuất xứ chính xác của hai câu thơ này rất cao. … 悼金夫人 Điệu Kim Phu Nhân còn có tựa là Họa Tra Vi Nhân Điệu Vong Thi 和查为仁悼亡诗. Triệu Diễm Tuyết họa lại bài điệu vong của Tra Vi Nhân (1695-1749) khóc vợ là Kim Chí Vân 金至云 chết vì bịnh. Đáng tiếc là bài điệu vong của Tra Vi Nhân không còn nữa. Triệu Diễm Tuyết là thiếp của Đông Hoành 佟宏 người Thiên Tân 天津, đồng hương với Tra Vi Nhân.
Ghi chú:
Bài tứ tuyệt rất chỉnh niêm vận. Hai câu đâu miêu tả hiện tượng thiên nhiên vô thường sinh trụ hoại diệt. Câu 1 nước trôi cũng như tuổi thanh xuân không bao giờ trở lại. Sự an lành phút chốc trở thành đau thương với cái chết. Hai câu cuối tương phản hai câu đầu khi giai nhân và danh tướng không muốn biểu lộ sự tàn tạ của mình ở tuổi già.
Sau đây là bài thơ tạm dịch:
Thương Tiếc Bà Kim
Nước chảy tuổi Xuân chẳng ở lâu.
Thanh nhàn phút chốc ngập thương đau.
Giai nhân tự cổ như danh tướng,
Không để nhân gian thấy bạc đầu.
Chúng tôi đã chia nhau ra phận sự: Hoàng Xuân Thảo kể truyện còn Nguyễn Thanh Bình viết lời bàn cho mỗi chương. Chúng tôi rất mong qúy vị độc giả góp ý kiến để cuốn truyện trở thành một tác phẩm chung do nhiều người biên soạn.
Trân trọng,
Hoàng Xuân Thảo và Nguyễn Thanh Bình
***
Vài dòng tiểu sử Hoàng Xuân Thảo
Tên thật Hoàng Ngọc Khôi
Tiến sĩ Y Khoa, cử nhân Luật Khoa và Văn Khoa
Cựu giáo sư các trường Gia Long, Quốc gia Sư phạm, Khuyến Học, Hàn Thuyên
Cựu sinh viên quân y hiện dịch Khóa V 1952-1958
Các tác phẩm đã xuất bản hay ấn hành:
THƠ
-Niềm Đau Sáng Tạo
-Khung Trời Quê Hương
-Áo Trắng Tình Hồng
-Tiếng Vọng Rừng Phong
KỊCH
-Tiếng Pháo Giao Thừa (đã trình diễn tại rạp Dakao, Sài Gòn 1956)
-Nỗi Ám Ảnh Của Một Tấm Hình
-Thức Tỉnh Lúc Hoàng Hôn Cuộc Đời Triết Gia Trần Đức Thảo
-Người Tập Kết Trở Về (Viết dựa theo truyện của Nguyễn Tấn Ích)
BIÊN KHẢO
với sự cộng tác của BS Nguyễn Thượng Vũ
với sự cộng tác của BS Từ Uyên
DỊCH THUẬT
với sự cộng tác của tiến sĩ Nguyễn Phúc Bửu Tập
-Kẻ Ngoài Lề (L’étranger)
Với sự cộng tác của tiến sĩ Nguyễn Phúc Bửu Tập
-Cầu Nguyện (La prière)
VIDEO THƠ NHẠC
-Đã trình bày hơn 250 video về nhạc và thơ
Vài dòng tiểu sử Nguyễn Thanh Bình
Nguyễn Thanh Bình là tên thật.
Y Khoa Bác Sĩ, đại học Y Khoa Sài Gòn năm 1967.
Trưng tập, gia nhập quân lực VNCH năm 1968, phục vụ tại binh chủng Thiết Giáp,Tiểu đoàn 7 Quân Y Trung tâm 4 tuyển mộ nhập ngũ, Trung tâm 4 hồi lực.
Cựu Hội trưởng Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada.
Cựu Chủ Bút Tập San Y Sĩ Canada.
Viết truyện ngắn cho báo Tình Thương của YKĐH Sàigon.
Viết truyện ngắn, biên khảo, phiếm luận, văn chương và nhiều đề tài khác cho các báo ở quốc ngoại.
Làm thơ, tuỳ hứng, dịch Đường thi, Tống thi và Tống từ.
CHƯƠNG I
TÂY SƠN ĐÁNH CHIẾM PHÚ XUÂN
Sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Huệ cho mở tiêc khao quân. Đây là chiến thắng lớn nhất kể từ khi Nguyễn Nhạc từ Tây Sơn nổi dậy năm 1774. Chiến dịch Phú Xuân kéo dài chỉ vẻn vẹn có 28 ngày, xuất quân ngày 25.5.1786, chiếm Phú Xuân đêm 15.6 và tới 23.6.1786 thì Thuận Hóa coi như hoàn toàn thuộc về nhà Tây Sơn. Trấn thủ Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu ra hàng nhưng sau đó cũng bị giết, còn Hiệp Trấn Hoàng Đình Thể cùng hai con và tướng Vũ Tá Kiên đều tử trận.
Tại bàn tiệc, Tiết chế Nguyễn Huệ ngồi chủ tọa, hai bên là Tả đô đốc Vũ Văn Nhậm, con rể của Nguyễn Nhạc, và Hữu Đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh. Huệ hết lời khen Chỉnh đã có nhiều công lao trong cuộc chiến thắng khiến Nhậm có vẻ bất mãn trong lòng nhưng không dám để lộ ra ngoài mặt.
Thật ra công của Chỉnh không phải nhỏ vì Chỉnh đã làm kế ly gián hai tướng Cầu và Thể, bằng cách viết thư mời Thể về cộng tác với Tây Sơn nhưng lại cố ý đưa nhầm thư cho Cầu khiến Cầu nghi ngờ và trong khi chống lại cuộc tấn công của Tây Sơn, Cầu đã sai Thể đem quân ra ngoài thành rồi không chịu đem quân tiếp viện, lại còn đóng cửa thành không cho quân của Thể rút lui vào thành.
Hơn nữa chính Chỉnh đã thúc dục Nguyễn Nhạc tấn công Phú Xuân nhiều lần cho mãi tới khi ngoài Bắc Hà có loạn kiêu binh chia rẽ vua Lê với chúa Trịnh gây ra những hậu qủa bất lợi cho tình hình chính trị lẫn quân sự. Tuy Nhạc đã tự xưng vương năm 1778, lấy niên hiệu là Thái Đức nhưng ông vẫn dè đặt trong việc tiến đánh Phú Xuân từng là kinh đô của chúa Nguyễn nhưng đã bị tướng nhà Lê Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm năm 1776.
Tháng 3 ÂL năm 1786, giá gạo cao vọt, dân trong kinh kỳ và tứ trấn bị đói to, thây chết nằm la liệt khắp nơi. Chúa Trịnh hạ lệnh chiêu mộ nhân dân, ai nộp của sẽ trao cho quan chức, nhưng không ai hưởng ứng, bèn dùng sắc lệnh bắt ức nhà giàu để lấy tiền chia ra phát chẩn. Lòng dân rất phẫn uất và bất bình với triều đình và ước mong có sự thay đổi.
Nhân dịp tướng trấn thủ Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu cử tướng Nguyễn Phú Mai vào Quy Nhơn để thảo luận về biên giới giữa hai nhà Lê và Tây Sơn, Nguyễn Hữu Chỉnh trước khi về đầu Tây Sơn năm 1782 từng là bạn đồng liêu với Mai nên hỏi dò được Mai về tình hình Phú Xuân bèn báo cáo cho Nguyễn Nhạc biết.
Nhạc tới lúc này mới nghe lời Chỉnh đem quân đánh Phú Xuân, phong Huệ là tiết chế với ba phó tướng là tả đô đốc Nhậm, hữu đô đốc Chỉnh và tiền đô đốc Nguyễn Lữ phụ trách về thủy binh.
Tổng số quân Tây Sơn tham dự chiến dịch gồm 5.000 tiền quân, 2.000 hậu quân và 3.000 thủy binh, tất cả khoảng 1 vạn người.
Phía quân Trịnh có trên 3 vạn quân, đã bố trí lực lượng phòng bị. Từ sông Gianh tới đèo Hải Vân, có nhiều đồn để cứu ứng cho nhau. Tuy nhiên, đất Thuận Hóa trong nhiều năm không có chiến tranh, quân số tuy khá đông nhưng phòng thủ không chặt chẽ. Chủ tướng Phạm Ngô Cầu còn gọi là Quận Tạo thường chỉ lo chuyện làm ăn buôn bán, lơ là về phương diện quân sự, không sắm sửa khí giới phòng bị lương thực nên quân sĩ và dân chúng đều chán nản và khinh xuất.
Biết Phạm Ngô Cầu là người tin vào việc bói toán, Nguyễn Chỉnh bày mưu cho Nguyễn Huệ sai một thủ hạ người Hoa giả làm thầy bói tới Phú Xuân ra mắt quận Tạo Phạm Ngô Cầu, bảo rằng:
-Hậu vận tướng công phúc lộc nhiều lắm, nhưng năm nay có hạn nhỏ nên lập đàn giải hạn mới tai qua, nạn khỏi được.
Quận Tạo nghe theo, bèn lập đàn chay ở chùa Thiên Mụ trong 7 ngày 7 đêm, bắt quân phục dịch thật là vất vả không có thời giờ nghỉ ngơi nên ai nấy đều mệt mỏi và ơ hờ việc phòng bị. Trong khi tướng sĩ phía Trịnh mất cảnh giác đề phòng thì quân Tây Sơn từ Quy Nhơn bắt đầu lên đường ra bắc ngày 28 tháng 4 âm lịch tức 25 tháng 5 năm 1786.
Nhằm triệt để lợi dụng thời tiết mùa hè, gió nồm thổi mạnh có thể đưa thủy quân tiến nhanh ra đánh phá phía bắc, Nguyễn Huệ lập kế hoạch đánh bất ngờ ở các điểm phòng thủ quân Trịnh từ sông Gianh trở vào, từ Hải Vân trở ra và từ cạnh sườn vào Phú Xuân. Huệ dùng chiến thuật gọng kìm, mở một lúc ba mặt trận:
-Một đạo quân do Nguyễn Lữ chỉ huy gồm thủy bộ binh tiến thẳng ra sông Gianh rồi chia làm hai: một cánh án ngữ sông Gianh ngăn viện binh quân Trịnh ở Nghệ An vào cứu; cánh kia đánh xuống các đồn quân Trịnh ở Bố Chính, Leo Heo và hợp với cánh quân từ Phú Xuân tiến ra đánh Dinh Cát.
-Toàn chủ lực bộ binh tập trung đánh đèo Hải Vân rồi tiến ra Phú Xuân là mũi dùi chủ yếu.
-Một đạo thủy quân khác từ cửa bể Thuận An tiến theo sông Hương, chọc mũi dùi vô nách là thành Phú Xuân
Đèo Hải Vân tuy xung yếu, đồn lũy kiên cố để bảo vệ Phú Xuân nhưng từ nhiều năm quân Trịnh đã khá trễ nải trong việc phòng thủ
Khoảng trung tuần tháng 5 âm lịch năm 1786, đạo quân bộ của Tây Sơn do Nguyễn Huệ đích thân chỉ huy đã tập kích bất ngờ nơi này, quân Trịnh không kịp trở tay. Tướng chỉ huy đèo Hoàng Nghĩa Hồ mang quân ra chống địch bị thua trận và chết tại chiến trường.
Đánh chiếm được Hải Vân, Nguyễn Huệ lập tức thúc quân tiến thẳng ra Phú Xuân.
Trong lúc Nguyễn Huệ tác chiến ở phía nam thì Nguyễn Lữ mang thủy binh ra sông Gianh. Tại đây, quân Tây Sơn chia làm 2 cánh. Một cánh án ngữ sông Gianh ngăn viện binh Trịnh từ bắc sông Gianh kéo vào; cánh kia tiến xuống chiếm đồn Bố Chính và lũy Đồng Hới.
Tuy tại đây có không ít đồn phòng thủ nhưng các cánh quân Trịnh tại đây đều không có tinh thần chiến đấu. Khi quân Tây Sơn kéo đến, các tướng sĩ Bắc Hà đều bỏ thành lũy chạy trốn. Khi quân Tây Sơn chiếm được Bố Chính sắp tiến vào Leo Heo thì quân Trịnh tại đây cũng bỏ chạy, nhưng bị dân địa phương bắt nộp cho quân Tây Sơn.
Quân Tây Sơn tiến đánh lũy Đồng Hới (lũy Thầy) do Phái Vị hầu và Ninh Tốn chỉ huy. Tuy thành lũy khá kiên cố nhưng tinh thần quân Trịnh tại đây cũng bạc nhược. Hai tướng Trịnh sợ bị đánh từ cả đường thủy lẫn đường bộ, không dám chống cự bèn theo đường núi trốn thoát về Bắc.
Ngày 26 tháng 5 âm lịch tức 21 tháng 6-1786, quân Tây Sơn chiếm đóng lũy Đồng Hới.
Tướng đóng ở các đồn Cát Doanh và Động Hải nghe được phong thanh đều bỏ chạy. Thế là chỉ trong vòng 28 ngaỳ quân Tây Sơn đã làm chủ Chánh Dinh tức Thuận Hoá theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý đôn viết năm 1776, khi ông làm Hiệp Trấn tại đây, bao gồm 1436 xã, 157,960 đinh (từ 18 tới 55 tuổi), 789,800 dân.
Tiệc khao quân đêm ấy rất lớn vì các kho lương thực địch bỏ lại còn nguyên. Tướng sĩ và quân lính ai nấy hân hoan và tinh thần chiến đấu lên rất cao.
Chỉnh là người rất khôn ngoan, không dám nhận lời khen của chủ tướng, ngược lại cũng không hết lời ca ngợi tài điều quân thần tốc của Huệ khiến Huệ cũng có một bữa tiệc thoải mái và đắc chí.
Chỉ có Nhậm là có vẻ tư lự và chưa tan tiệc thì Nhậm đã đứng dậy xin phép cáo lui vì cần phải đi kiểm soát doanh trại trước khi đi ngủ. Huệ đợi Nhậm đi khuất hẳn mới hất cằm hỏi Chỉnh:
-Tình hình Bắc Hà thế nào?
-Rất là rối loạn. Kiêu binh trước kia đưa Trịnh Tông lên, nay phe Tông lại muốn bài trừ bọn kiêu binh ỷ có công nên chẳng coi ai ra gì. Bọn chúng nay lại lấy chiêu bài phù Lê để chống lại họ Trịnh khiến cho vua chúa canh chừng lẫn nhau và các quan triều thần bối rối kẻ đứng bên này, kẻ theo bên kia...
-Thế nhà vua thì sao?
-Hiển Tông chỉ muốn yên thân, nên cũng không ủng hộ phe đòi diệt Trịnh. Nhà vua còn tuyên bố ai còn đem chuyện lật Trịnh ra thì người sẽ báo cho chúa biết.
Huệ thừ người ra suy nghĩ một lát, bỗng ngồi nhỏm dậy, nắm tay áo Chỉnh, nghiêm mặt hỏi:
-Trước tình hình như vậy đô đốc nghĩ sao?
Chỉnh nâng ly rượu lên, uống một hớp, đặt ly xuống bàn, ghé sát lại gần Huệ, hạ giọng:
-Chủ Tướng có hỏi, Chỉnh này mới dám nói. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để tiến quân ra Bắc, Bắc Hà sẽ thuộc quyền tướng công như trở bàn tay.
Chỉnh ra cái điều quan trọng, tằng hắng mấy cái rồi nói chậm rãi:
-Phàm cái việc dụng binh thì cần nắm lấy ba cái là Thời, Thế và Cơ. Có ba điều đó thì đánh đâu được đấy. Hiện giờ ngoài Bắc, tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không có kỷ cương. Nay nếu ông lấy cái uy vừa hạ thành Phú Xuân này mà đem binh ra Bắc thì làm gì mà không đặng. Tướng công không nên bỏ mất cái Cơ, cái Thời và cái Thế đang có này.
Huệ ngắt lời:
-Ngoài Bắc nghe nói có nhiều nhân tài lắm e rằng đại sự không dễ dàng như Nguyễn đô đốc nói đâu?
Chỉnh cười đầy vẻ tự tin:
-Nhân tài Bắc Hà chỉ có mình tôi thôi. Tôi bỏ đi rồi thì Bắc triều chỉ còn như cái thùng rỗng, tướng công chớ ngại.
Huệ cười xòa:
-Ấy là tôi thật tình chẳng ngại ai đâu, mà chỉ ngại mình ông thôi.
Chỉnh biến sắc mặt, vội vàng biện bạch:
-Tôi muốn nói ngoài Bắc lúc này không có nhân tài, ta đánh chiếm rất dễ chứ moi sự là do tướng công quyết định vì tướng công có tầm mắt nhìn xa và rộng không ai bì được.
Huệ trấn an:
-Ấy là tôi nói chơi thôi chứ không có ý gì cả. Vấn đề chính là hoàng huynh chưa có chủ định đánh ra Bắc lúc này mà cho là cần tăng cường lực lượng phòng thủ trước đã, ngoài ra mình lấy danh nghĩa gì mà xâm lấn Bắc hà. Nhà Lê dù sao cũng đã làm vua mấy trăm năm nay, mình cướp lấy cơ nghiệp chưa chắc dân tình đã chịu theo mình.
Chỉnh lại thuyết phục:
-Triều đại nhà Lê đã có Vua lại còn có Chúa, Hai quyền lợi xung đột nhau tự nó sinh ra một mâu thuẫn tất sẽ dẫn ra mối đại biến. Họ Trinh tiếng là phù Lê nhưng thực tế là hiếp chế, cả nước không ai phục.
Chỉnh lại tằng hắng và tiếp với giọng cương quyết:
-Mình lấy danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh” thì không ai bắt bẻ vào đâu được. Lại nữa, làm tướng cầm quân ngoài mặt trận, xa cách hậu phương thì không cần phải có mệnh lệnh trên mà nên tùy cơ ứng biến cho nên dù có mệnh lệnh chăng nữa cũng có khi có thể bất tuân.
Chỉnh nói xong nhìn Huệ đăm đăm dò ý, biết là Huệ vẫn còn e ngại vì không có lệnh của Nguyễn Nhạc, Chỉnh bèn kề miệng sát tai Huệ nói thì thầm. Mặt Huệ như bừng sáng ra, nghe xong vỗ đùi nói lớn:
-Hay lắm! Hay lắm! Diệu kế! Cống Chỉnh thật tài trí hơn người.
Hai người cùng cười ha hả, cụng ly nhau rồi uống một hơi cạn sạch. Huệ đứng dậy trước, vỗ vai Chỉnh:
-Ta đi nghỉ thôi. Đô đốc cứ chuẩn bị theo kế hoạch mà tiến hành.
Chỉnh cũng đứng dạy, cúi chào Huệ từ từ rời khỏi bàn tiệc, nhìn theo rồi lại ha hả cười. Bỗng nhiên vừa đi tới cửa, Huệ quay ngoắt người lại và bắt gặp Chỉnh đang cười với vẻ đắc chí ra mặt. Huệ lẩm bẩm:
-Thả hổ về rừng chuyến này rồi. Không biết có nên chăng?
Huệ lo ngại cũng không phải là vô cớ vì trước kia Chỉnh đã từng là công thần nhà Lê, là phó tướng rất tin cẩn của Huy Quận công Hoàng Đình Bảng tới khi Huy quận bị kiêu binh giết thì Chỉnh mới đang từ Nghệ An chạy sang đầu Tây Sơn. Tuy Chỉnh sau đó giúp Nguyễn Nhạc đánh dẹp và mở rộng đất đai thuộc Tây Sơn nhưng vẫn không chiếm được lòng tin trọn vẹn cuả anh em nhà Tây Sơn. Chỉnh tất nhiên cũng biết thế nên đem cả vợ con tới Quy Nhơn làm con tin. Chúa Trịnh, biết Chỉnh là người có tài nên tìm cách chiêu hồi bằng cho em rể Chỉnh vô Quy Nhơn làm thuyết khách nhưng bị Chỉnh cho lệnh chém đầu để chứng minh lòng trung thành với Tây Sơn.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét