Thôi đã ba chìm bảy nổi / Đổi đời bão táp đẩy đưa / Xứ người sớm chiều mưa nắng / Có nói gì thêm cũng thừa / Sống sót một thời chiến loạn / Hồn nhiên tuổi dại không còn / Ngồi nghe gió đùa tóc rối / Mà vui với tấm lòng son / Trăng lên buồn thuyền vắng / Người có về đến nhà.
(Mây Tần - PKT 07/31/2023)
Tử Dạ Tứ Thời Ca
Lý Bạch (701 - 762)
(1) XUÂN CA
Tần địa La Phu nữ
Thái tang lục thủy biên
Tố thủ thanh điều thượng
Hồng trang bạch nhật tiên
Tàm cơ thiếp dục khứ
Ngũ mã mạc lưu liên
Lý Bạch
***
Dịch Xuôi:
Xuân Ca:
Người con gái tên gọi La Phu ở đất Tần / một sáng xuân đi hái dâu bên dòng sông xanh / bàn tay trắng đẹp vin nhánh dâu non / màu áo hồng khoe sắc e ấp trong nắng / vì tằm đói nên thiếp phải vội về / xin người quân tử thông cảm cho, chớ sàm sỡ níu kéo mà chi kẻo tội cho thiếp phải chiụ điều tiếng
Dịch Thơ:
Xuân Ca
La Phu gái đất Tần
Đang hái dâu bên sông.
Nhánh non níu tay trắng
Lung linh tà áo hồng.
Tằm đói phải về vội,
Xin quân tử đừng trông.
Phạm Khắc Trí
---------------
(2) HẠ CA
Kính hồ tam bách lý
Hạm đảm phát hà hoa
Ngũ nguyệt Tây Thi thái
Nhân khan ải Nhược Da
Hồi châu bất đãi nguyệt
Quy khứ Việt vương gia
Lý Bạch
***
Dịch Xuôi:
Hạ Ca
Hồ Kính ba trăm dặm nước mênh mông / tháng 5 đương mùa hoa sen nở rộ / Tây Thi cô gái nước Việt chèo thuyền đi hái sen / khách nhàn du đứng xem dọc theo hai bờ khe Nhược Da (một lạch nước nhỏ chảy vào hồ) / đông vui ( bỗng nhiên không đợi trăng lên), thuyền hoa sao đã sớm quay về nơi vua Việt ở / bỏ lại cho ai một trời mây nước bâng khuâng
Dịch Thơ:
Hạ Ca
Kính Hồ nước mênh mông
Đương mùa sen nở rộ.
Tây Thi, gái nước Việt
Hái hoa ở Lạch Da.
Trăng lên, buồn thuyền vắng,
Người có về đến nhà?
Phạm Khắc Trí
-----------------
(3) THU CA
Trường An nhất phiến nguyệt
Vạn hộ đảo y thanh
Thu phong xuy bất tận
Tổng thị Ngọc quan tình
Hà nhật bình Hồ lỗ
Lương nhân bãi viễn chinh
Lý Bạch
***
Dịch Xuôi:
Thu Ca
Trường An vằng vặc một vầng trăng sáng / nhà nhà vang dội tiếng chầy giặt áo lạnh cho mùa đông sắp tới/ gió thu thổi về lồng lộng không gian / như đưa tiễn ai ra mãi ngoài biên ải xa / biết có ngày nào dẹp yên được giặc dữ / cho người chinh nhân hết chuyện chiến tranh được trở về nhà
Dịch Thơ:
Thu Ca
Trường An một vầng trăng
Tiếng chày giặt rộn ràng.
Gió thu thổi da diết
Xót người ngoài chiến địa .
Bao giờ yên giặc dữ
Cho thiếp thôi nhớ chàng.
Phạm Khắc Trí
------------------
(4) ĐÔNG CA
Minh triêu dịch sứ phát
Nhất dạ nhứ chinh bào
Tố thủ trừu châm lãnh
Na kham bả tiễn đao
Tài phùng ký viễn đạo
Kỷ nhật đáo Lâm Thao
Lý Bạch
***
Dịch Xuôi:
Đông Ca
Hay tin sáng mai có sứ dịch đi ra ngoài trận địa / người chinh phụ đã mất suốt một đêm ngồi khâu lại chiếc áo ấm cho chồng / bàn tay đã tê cóng vì kim chỉ lạnh / cơ hồ đôi lúc không cầm nổi cái kéo lên để cắt nữa , thương nhớ không cùng / cũng may là đã làm xong để kịp gửi đi / nhưng rồi lại lo không biết có kịp đến nơi để chàng có áo mặc cho khỏi bị lạnh trong mùa đông này ở nơi chiến địa.
Dịch Thơ:
Đông Ca
Mai phu trạm ra ải
Thức suốt một đêm đông
Tay cóng, kim chỉ rối
Kéo cắt lạnh khó cầm
Cố cho xong kịp chuyến
Biết chàng nhận được không?
Phạm Khắc Trí
---------------
Chú Thích:
(1) Ngũ mã = xe 5 ngựa kéo dành cho quan thái thú
(2) Nhược Da, còn gọi là Da Khê, một khe lạch nhỏ chảy vào Kính Hồ , xưa thuộc đất Việt, thời Xuân Thu ( thời Việt Vương Câu Tiễn, Phạm Lãi, Tây Thi}
(3) Trường An, tên một kinh đô xưa , nay còn phế tích ở Thiểm Tây
(4) Ngọc Quan, hay Ngọc Môn Quan , tên một cửa ải cách Trường An khoảng 3600 dặm, phía tây bắc
(5) Lâm Thao, chỉ vùng chiến địa , nay thuộc Cam Túc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét