Thứ Hai, 29 tháng 11, 2021

Bóng Người Bóng Ta


Tối lọ mặt người, vu vơ có tiếng cóc nhái khiến đất trời thâm u thêm. Thẻo đất trải dài vào khoẻn vườn dẫn tới mái hiên đang đỏ đèn. Nhập nhòa dưới bóng trăng, bóng cây ẩn hiện một bóng người đang hòm hõm ngồi ở cái bàn có cái đèn hột đỗ.

Vừa lúc xuất hiện một cái bóng khác trong bóng đêm, tay cầm gậy trúc khua cua bước ngả nghiêng như dấu chấm than (!) về hướng căn nhà có bóng người.
Vừa đi cái bóng khác vừa lâm râm như tự thán:

Bao năm tháng thân chìm vào bóng
Thân về trời bóng vẫn ngồi im
(Hoàng Vũ Thuật)

Dưới mái hiên, bóng người đang ngồi dạng “Tôi một bữa ngồi im như bàn ghế” (thơ Cao Đông Khánh). Nói cho ngay bóng người đã ngồi đấy từ năm này qua năm khác chờ đợi một hình bóng không hẹn mà đến, để nửa vách đèn tàn, thị u lâm mạc luận. Thế nên bóng người vừa nghe cái bóng nhắc đến mình bao năm tháng thân chìm vào bóng, dường như quen thuộc thì phải.

Bóng người cất giọng mời gọi…
Bóng ơi mời bóng vào nhà
Ngọn đèn khơi tỏ, đôi ta cùng ngồi
Ngồi đây ta nói sự đời
Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe
(Tản Đà)

Cái bóng ngồi xuống. Nhìn cạnh cái đèn hột đỗ có sấp bản thảo. Đảo mắt qua những con chữ, cái bóng gật gỵa:
- Ông rồ chữ đang túm tó gì đây?
- Chả là bấy lâu nay trên kệ chữ có dăm cuốn sách mà chữ nghĩa cứ ngẫn ngẫn cả lên. Nên tôi đang nhai chữ ra câu, nhằn câu ra chữ thành văn bài bắt chước cụ Tản Đà mang văn lên bán chợ giời ấy thôi, thưa cụ.

Chép miệng cái tách, cái bóng nói đay:
- Hóa ra ông như nhà thơ Quách Tấn trong bài Tứ thú của có bốn câu Có tiền in sách đẹp - Gặp bạn sẵn thơ hay - Gối tỉnh hồi chuông sớm - Võng đưa giấc ngủ ngày. Nhân nhúc nhắc đến câu võng đưa giấc ngủ ngày, tôi chợt dạ quan hoài đến cụ Hoàng Cầm. Năm 1959 ở phố Lý Quốc Sư, 3 giờ sáng, cụ nghe bà hàng xóm ngâm lanh lảnh câu thơ Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng nên bật ra bài Lá diêu bông.

Vậy chứ “cửa võng” là gì? Xin ông…gối tỉnh hồi chuông sớm cho.
Nghe thủng rồi, bóng người nói một câu tròn vành rõ chữ:
- Cụ cứ quá nhời ấy thôi. Thôi thì tôi cũng đành bấm bụng xin thưa “váy cửa võng” từ váy đùm, váy kép mà ra. Số là váy cửa võng phần trước váy chùng xuống những mép cong cong như cái cửa võng. Người mặc váy khéo phải thu xếp làm sao phía trước rủ xuống mu bàn chân, phía sau hơi hếch lên gót bàn chân.

Ấy la cụ Hoàng Cầm dậy thế và váy Đình Bảng chỉ làng Đình Bảng mới có. Còn “cửa võng” là tên gọi cửa đình. Các cụ chơi chữ gọi là…”y môn”, thưa cụ.
***
Bóng tối chùm bóng đêm, cái bóng chập chờn len chân chuyện…
Thi nhân phương Nam ta cấu, véo thi bá phương Bắc qua hai chữ “dữ” và “cộng”. Ấy là tôi muốn sơ sịa giai thọai Vương Bột qua bài Đằng vương các tự: Chuyện là con của Cao Tông đời sơ Đường, được cha phong là Đằng Vương, nên dựng một cái gác bên bến Tầm Dương để bằng hữu ngâm thơ tác phú. Vương Bột lúc ấy mới 15 hay 16 tuổi đến và ngậm vần nhả chữ để thành danh với hai câu:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc

Tha nhân nói Vương Bột dốt nhưng không chỉ dốt ra sao? Năm 29 tuổi, Vương Bột đi thăm cha làm Thái sử ở Giao Chỉ, bị đắm thuyền chết ở xã Thổ Thành, Nghệ An. Hồn vất vưởng không siêu thóat mỗi lần mưa gió lại hiện lên, níu áo văn nhân sĩ tử qua lại, ai óan ngâm thơ của mình và hỏi dốt ở chỗ nào để xin chỉ giáo. Dân làng lập đàn cúng tế cũng không xong, sau phải nhờ đến Hồ Tôn Thốc. Nhân lễ nguyên tiêu, trạng nguyên họ Hồ nghe được kỳ thọai miếu thần, vào miếu thờ Vương Bột để cầu an cho trăm họ

Hồ Tôn Thốc thắp hương khấn Vương Bột tự Tử An mà rằng:
- Tự thán “Tử” như vận vào ngươi nên chết vẫn chẳng…yên. Vì rằng nhà ngươi còn dốt thật, đã bao năm có tiếng là tứ kiệt sơ Đường mà chẳng nhận ra điều ấy ru: Vậy thì mỗi câu bớt đi một chữ: “tề phi” là cùng bay không cần chữ “dữ” nghĩa là…với. Câu thứ nhì “nhất sắc” tức một màu không cần chữ “cộng” là…cùng nữa.

Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, và Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích chép bài thơ như Thị ý (Tỏ ý) của Hồ Tôn Thốc có hai câu thể hiện bản lĩnh nhà thơ:

Hàn mặc tranh vi Vương Bột hậu
Văn chương thùy thí Giả Sinh tiền
(Tài bút mực quyết không chịu đi sau Vương Bột

Nghiệp văn chương ai biết ta còn đứng trước Giả Sinh)

***

Đến tao đọan này, bóng người búi bấn:
- Chả dấu gì cụ, nghe người xưa chẻ câu chặt chữ tôi cứ rối inh. Người nay cũng chả hơn gì với sẩy câu ra chữ, sàng chữ ra câu để trong văn học rơi rớt cụ Tản Đà qua bài Gió thu…rơi rụng với đảo chữ, đảo nghĩa.

Ngọn gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng

Ngọn gió thu phong rụng lá hồng
Lá rơi tường bắc, lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông

Thập niên 40, ông chủ bút Lê Tràng Kiều của Hà Nội báo cắt béng đi còn bốn câu sau. Đó là chưa kể bốn câu trước những chữ “ngọn gió”, “rụng”, “rơi”, bị ông ta sửa thành “trận gió”, “rũ”, “bay” như thể dưới đây, thưa cụ:

Trận gió thu phong rũ lá vàng
Lá bay hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm hồ hết
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng

Bóng người đùm đậu:
- Nào khác gì vua Tự Đức đâu, thưa cụ.

***
Chuyện đâu hãy còn đó, vì cái bóng lụi đụi với chuyện xưa tích cũ:
Từ Vương Bột có câu: “Thời lai, phong tống Đằng vương các”, nôm là thời tới nhờ gió máy đưa đến để thành danh, chỉ cái may mắn của kẻ gặp vận như Lý Bạch.vậy. Vậy xin thưa với chuyện Hòang hạc lầu, nếu không có tội với Đường thi, Tống tửu.

Ừ thì hãy lây lất với Thôi Hiệu trước đã…

Kiến trúc này nằm trên mỏm đá Hòang Hạc ở nam Trường Giang. Chủ nhân họ Tân giao du rộng, các văn nhân mặc khách thường lui tới uống rượu ngắm cảnh gió nội mây ngàn. Chuyện là có một họa sĩ để lại trên tường bức tranh Vũ hạc, vẽ hạc múa sống động…như thật. Thôi Hiệu nghe tiếng, tìm đến đề thơ Hòang hạc lầu có câu: “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản – Bạch vân thiên tải không du du”.

Theo chân Thôi Hiệu, một ngày Lý Bạch nhón nhén tới uống rượu ngắm hoa và bon chen hai câu: “Hòang Hạc Lâu trung xuy ngọc địch - Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa”. Xin thưa với ông rằng thi hào, thi bá Trung Hoa có dều người ra với hạc vàng, hạc trắng gì gì đi chăng nữa thì câu: “Giang thành ngũ nguyệt lạc mai hoa” tức Trường giang tháng năm mai rụng…”. Với tôi, quanh quẩn nơi xó vườn đóan chừng Lý Bạch sơi rượu, ngất ngư làm thơ ngắm…mai hoang, mai dại ấy thôi.

Thơ thẩn như vậy là nhất với Đường thi, nhưng nghe óc ách sao ấy. Và chẳng phải đợi đến Lý Bạch nhắc nhở người sau: “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc – Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”. Vì cụ Tản Đà chỉ cần vẩy mực nhẹ hai câu trên giấy khô mực nẻ Cái hạc bay lên vút tận trời, trời đất từ nay xa cách mãi. Thế là hạc bay cao, mãi mãi, lại bay… “vút tận trời” để người đọc vấn vương với…” từ nay xa cách mãi”.

Bóng người được thể kỳ cổ với cái bóng…

- Cứ thep tôi góp nhóp qua sách Thái Bình vũ ký và sách Đồ kinh: Người nước Thục tên Phí Văn Vỹ tu thành tiên, thường cưỡi hạc qua mỏm núi Hòang Hạc và nghỉ ngơi ở lầu này nên người tiên đặt tên là Hòang hạc lầu. Hay nói khác đi người Phí Văn Vỹ là cao tằng tổ tổ người Ngộ Không Phí Ngọc Hùng thời nay đấy, thưa cụ.
***
Trở lại chuyện sửa thơ của Tự Đức, bóng người đơm chuyện câu thơ Đập cổ kính ra tìm lấy bóng - Xếp tàn y lại để dành hơi. Vì bài thơ Khóc Thị Bằng không phải của Tự Đức mà của Nguyễn Gia Thiều khóc nàng Bằng Cơ, người vợ lẽ của ông. Sở dĩ có sự lẫn lộn này vì Tự Đức hay sửa thơ thiên hạ, khi nhuận sắc sửa hai chữ mảnh gương thành…“cổ kính” và manh áo thành…“tàn y”, rồi xếp vào tàng kinh các của mình.

Trong Thi văn bình chú (1942), cụ Nguyễn Văn Tố nhận định: “Xét ra vua Tự Đức ít khi làm thơ quốc âm. Coi tập Việt sử tổng vịnh và những nhời phê của ngài ở bộ Việt sử khâm định, thì biết tính ngài lúc nào cũng muốn tỏ mình bệ vệ. Với cái tính ấy, chắc không khi nào ngài chịu dùng những chữ tình, chữ duyên để khóc một người đàn bà. Huống chi thơ vua Tự Đức rất dở, cả tập Việt sử tổng vịnh không được mấy bài nghe được. Vậy mà bài này lại là một bài rất hay, có lẽ sức ngài không thể làm nổi”.

Quách Tấn trong Hương vườn cũ cho rằng đây là thơ của Tự Đức, nhưng có hai câu sửa từ nguyên gốc của Nguyễn Gia Thiều: “Đập mảnh gương xưa tìm lấy bóng - Xếp manh áo cũ để dành hơi”. Nguyễn Gia Thiều vốn dịch từ hai câu chữ Hán của Trần Danh Án: “Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh, Trùng phong khâm tử hộ dư hương”.

Trong một phiêu hốt, cái bóng lẫn đẫn thấy rõ…
- Chết chửa, ông nói nghe rõ lạ.
Khi không bị đổ vấy mọc ra chuyện, bóng người giọng khê thuốc lào…
- Ấy đấy, tôi nào phải là thi nhân, kể lể chuyện thơ thẩn chả đâu vào đâu. Vậy mà tôi vắt cổ chầy ra nước mới mài óc được di mặc này đây. Nói dại chứ cứ nhóp nhép như bò nhai lại ấy mà. Chẳng qua là gọt chữ vót bút dối già đấy thôi, thưa cụ.
Cái bóng im ỉm như thóc ngâm một hồi mới khẽ khọt:
- Vẽ, làm gì mà ông phát rồ vậy, như Đỗ Phủ đã dậy: “Văn chương thiên cổ sự - Thất đắc thốn tâm tri”, nôm là văn chương tự muôn thưở, hay dở chỉ lòng mình biết thôi. Ông đừng có đụt, đừng dối giăng dối cuội gì sất. Tiếp cái bóng ầm ào…

Tuổi già bóng trẻ mãi
Người mất bóng chẳng già
(Hoàng Vũ Thuật)

Bóng người cũng nho nhe như cái bóng: “Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân – Tương phùng hà tất tằng tương thức”, vì cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ đã quen nhau. Nay nhân giải cầu vong niên, cửu trùng tri ngộ, nhờ túc duyên gặp gỡ mà cụ đây chả câu nệ tuổi tác, lại dầy chữ như cụ Ngộ Không. (xem kết cấu cuối tr 6)
Thế nên bóng người bất giác mặt mày bơ ngơ:
- Cụ dậy sao tôi chắc bụng vậy, mà giời ạ, cụ mắn chữ gớm. Mà sách vở để lâu chỉ tổ cho mối mọt nó sơi, để rồi nhai văn nhá chữ buồn ta qua mấy cái giai thọai cũ rích như lợn ăn cám hấp để lập thân tối…“dạ” thị văn chương, ai mà dại, thưa cụ.
***
Nghe bụng như mở cờ, cái bóng lụng bụng…
- Bằng vào cái tâm đắc giữa ông và tôi thời nho mạt này, ba mớ chữ vô chăng, hữu có, khuyển chó, dương dê, tôi chả hanh thông cho mấy. Thêm ba thứ ễnh ương, chẫu chuộc ồm ộp gieo vần, giáng vận này kia. Như các cụ ta xưa thi Hương với Đường luật bát cú, tứ tuyệt, thi Hội với ngũ ngôn, thất ngôn, lẫm đẫm đến luật thơ như phá đề, thừa đề, cách cú, gối hạc, thúc dồn, cách cảm. Những thứ ấy tuyệt không có tôi…

Nay tôi mạo muội gõ cái chuông của Trương Kế.

Chuyện là tại tỉnh Hồ Bắc, Trương Kế đang ngồi trong thuyền cắm sào, sầu miên gần thâu đêm, buồn tình ngồi rặn ra hai câu đầu...Rồi tịt. May nhờ có vị sư già và chú tiểu, Trương Kế nghe được tiếng chuông nhà Phật nên tỉnh thức mới làm được hai câu tiếp cho bài Phong kiều dạ bạc. Theo kỳ tích, Trương Kế đang neo thuyền tại bến sông, thấy trăng sao chập chờn, trên bờ điểm những đốm lửa của dân chài sau rặng phong lập lòe như ma chơi, nên…sợ quá đỗi, cứ thao thức mãi. Bỗng nghe có tiếng quạ kêu, bèn lóp ngóp bò dậy bóp cổ…con quạ rặn ra được hai câu cổ phong:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

Thế nhưng người sau hiệu đính cái khổ nạn của Trương Kế: Ô Đề là tên thôn xóm chứ không phải tiếng…quạ kêu. Còn Sầu Miên là tên cũ của núi Tô Châu chứ chẳng phải…giấc ngủ buồn. Thêm nữa, khổ nỗi mấy ông thắt bím lại thích đèo bòng vẽ vời …một chuông hai mõ, khóac cho vị sư già vừa là Phật gia, vừa là thi nhân. Vị sư già nói kệ thì hay chứ làm thơ ắt hẳn là chẳng…hay hớm cho mấy.

Với chuyện là:

Canh khuya vằng vặc, sư thầy với chú tiểu đang bách bộ ngòai sân, thấy trăng lung linh mờ ảo. Thầy bèn thở ra hai câu “Sơ tam sơ tứ nguyêt mông lung – Bán tự ngân câu bán tự cung” rồi thôi. Lúc ấy chú tiểu mang thau ra lấy nước, thấy ánh trăng lung linh trên mặt thau như Nửa in dưới nước, nửa cài trên không (thơ Cao Tiêu), bèn cúng Phật hai câu kết: “Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đọan - Bán trầm thủy để bán phù không”.

Thật tình lời truyền tụng quả đà sai lạc, vì kệ chẳng ra kệ, thơ chẳng hòan thơ. Vừa lúc khách Trương Kế đang ngồi bó gối trong khoang thuyền, đang bí rị chưa nhả được hai câu sau. Và cũng vừa khi hai thầy trò thấy ý từ ăn khớp như tiên thiên và mẫn tiệp hiếm có. Sư thầy, bất kể nửa đêm, sai chú tiểu lên lầu đánh ba tiếng đại hồng chung phá tan cái tĩnh lặng của thiền quán, vang vọng tứ phương tám hướng…

Bỗng có tiếng chuông vô thức,…vô duyên vào lúc nửa đêm về sáng khua rồn rã, khách Trương Kế động não thêm hai câu “Cô Tô thành ngọai Hàn San tự - Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” vang vọng cả nghìn năm sau. Nhưng khổ nỗi giữa đêm khuya khoắt không phải lúc nhà chùa khua chuông gõ mõ…trên núi, thưa ông.

Nghìn năm sau khổ nạn đến với cụ Tản Đà, Phong kiều dạ bạc được cụ diễn tác:

Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến còn vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

Vì theo nữ ngâm sĩ Hồ Điệp: Trăng tà chiếc quạ kêu sương mới đúng theo nguyên tác của cụ Tản Đà mà bà có trong tay. Rõ ra “chiếc” mới gợi lên ý thê lương của con chim lạc bầy trong đêm vắng cùng người lữ khách mất ngủ ở dưới đò. Đồng thời tránh lập lại hai chữ: “tiếng quạ” và “tiếng chuông”.

Bỗng không cái bóng mặt mũi héo don:
- Như trên tôi thưa thốt với ông, tôi không mặn thơ cho mấy, nhất là với Đường thi, đường mòn còn chán chết hơn nữa.

Ngừng lại một chút làm như có gì ngẫm nguội lung lắm. Cái bóng lẩn đẩn:
- Nhân Hồ Điệp ngâm thơ…Tôi muốn ông thưởng lãm Hồ Dzếnh ngâm Phong kiều dạ bạc giọng Quảng, giọng Tiều có…điếc con nhĩ chăng.

Uỵt loọc, vú thày sướng mủn thín,
Coóng phống, dì phố, tui sàu mìn,
Cú chấu sèng ngồi Hồn Sán sì.
Dề pun, chống séng tâu hác sin.
***
Nghe thủng rồi, từ Trăng tà chiếc quạ kêu sương của Trương Kế, bóng người dóng dứ qua Phất phơ ngọn trúc trăng tà của cụ Dương Khuê qua người Trần Giao Thủy…

Cụ Dương Khuê phóng bút bài Trăng nước Hồ Tây có câu: Tiếng chuông Trấn Võ - Canh gà Thọ Xương cũng có tiếng chuông, tiếng gà. Trong Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm, dựa theo “Dương gia phả ký”, tham khảo thêm Luận đề về Dương Khuê của Nguyễn Duy Diễn, nhờ vậy Dương Thiệu Tống chép được nguyên văn bài thơ “Hà Nội tức cảnh” hay “Trăng nước Hồ Tây” của cụ Dương Khuê .

Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Dịp chày An Thái bóng gương Tây Hồ

Tháng 4-1918, lần đầu Phạm Quỳnh ghé chốn thần kinh, sau đó cuồng chữ qua bút ký Mười ngày ở Huế để kịp đăng trên tạp chí Nam Phong. Trong đó có đọan:

“Chùa Thiên Mụ có cái tháp bẩy từng, ở ngay bờ sông Hương, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca cho con trẻ hát”.

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái bóng gương Tây Hồ

Nghe xong, cái bóng ậm ừ:

Chữ nghĩa của người này
Là cái bóng của người kia
(Hoàng Vũ Thuật)

Nhìn cái đèn đang hiu hắt, cái bóng gật đầu tắp lự…

Như thị ngã văn cho lắm như kịch bản vá víu tiếng hồng chung bát nhã của sư thầy, sư trò để bài thơ Trương Kế có phần huyễn hoặc, là ảo không có thật. Huyền hoặc hơn nữa hãy trở lại bài Hà Nội tức cảnh của cụ Dương Khuê:

Có thể vì cảm giao, cảm hoài nào đó, cụ Dương Khuê đã cảm hứng, cảm tác từ bài Phong kiều dạ bạc của Trương Kế:

Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Cả hai bài thơ tức cảnh sông hồ, một phương Bắc đời Đường Huyền Tông, một phương Nam đời vua Tự Đức. Rõ ra một Tàu, một Ta, vô hình chung cùng âm hưởng, âm điệu, đôi cảnh, đối chữ như: trăng tà với nguyệt lạc, canh gà qua ô đề, chung thanh đến tiếng chuông. Âm hưởng, âm điệu có giang phong ngư hỏa đối với mịt mù khói sóng. Về tác động địa danh với: Cô Tô - Thọ Xương tới Hàn San - Trấn Võ là như thế, rằng như vậy, tôn ý ông rồ chữ thấy sao?

Từ tối khuya đến giờ bóng người chỉ thấy tòan dật chuyện, là chuyện có thể đúng, có thể sai của hai ông đồ rối chữ. Nhưng nghĩ cho cùng nhờ cái bóng qua Đường thi với phá đề, thừa đề, cách cú, thúc dồn, cách cảm mới có…“mở, thực”.

Đang định bày tỏ thi vị, cái bóng đã vãi miệng dùm…“luận, kết”:

Khi hai người gặp nhau
Họ chỉ còn một bóng
(Hoàng Vũ Thuật)
***
Vừa lúc bóng trăng khuất sau tàng cây. Nhưng vẫn còn hắt lại bóng ai vắt trên tường nhà. Bỗng cái đèn hột đỗ phụt tắt. Tối như hủ nút. Đất trời trống vắng thâm u.

Lúc này bóng người ớ ra cái bóng là…

Thạch trúc thảo lư

Tân Mão 2011
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
(thêm bớt 2018, 2021)


Nguồn: Đào Đức Chương, Lê Văn Huyền, Trương Quang

Trần Nhung, Lê Văn Huyên, Nguyễn Tử Quang, Chu Thiên

Nguyễn Qúy Đại, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Khôi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét