Thứ Năm, 22 tháng 6, 2023

Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt 賦得古原草送別 - Bạch Cư Dị

 

Nguyên tác           Dịch âm.

賦得古原草送別 Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt

离离原上草 Ly ly nguyên thượng thảo,
一歲一枯榮 Nhất tuế nhất khô vinh.
野火燒不盡 Dã hoả thiêu bất tận,
春風吹又生 Xuân phong xuy hựu sinh.
遠芳侵古道 Viễn phương xâm cổ đạo,
晴翠接荒城 Tình thúy tiếp hoang thành.
又送王孫去 Hựu tống vương tôn khứ,
萋萋滿別情 Thê thê mãn biệt tình.

Dịch thơ

Bài Phú Nhớ Cỏ Trên Đồng Xưa Buổi Tiễn Đưa

Cỏ trên đồng bát ngát
Hằng năm úa lại tươi
Lửa đồng không thiêu hết
Gió xuân gây sinh sôi
Hương xa về đường cũ
Thành hoang xanh biếc rồi
Lại tiễn người vương giả
Lê thê sầu chia phôi

Lời bàn

Bài thơ 8 câu tiễn đưa bạn mà đọc gần hết bài vẫn chưa thấy bạn đâu. Đột nhiên đẩy bạn ra giống như trò ú tim trong 2 câu chót.

- 6 câu đầu: nói rằng hằng năm vẫn đi trên cánh đồng này. Mùa đông, cỏ xanh trên đồng tàn úa rồi xuân về lại sinh sôi. Sinh sôi rồi tàn úa.
- Đọc 2 câu chót mới biết tác giả muốn dùng 6 câu đầu để ngụ ý rằng: "Hằng năm vẫn tiễn đưa bạn vương tôn trên cánh đồng này. Bạn cũ đi, bạn mới tới. Tụ họp rồi chia ly".
Cỏ tươi rồi úa, úa rồi lại tươi. Người đến rồi đi, đi rồi lại đến. Tình đầy rồi vơi, vơi rồi lại đầy. BCD chịu ảnh hưởng Phật giáo trong đoạn này (đời là bể khổ, khổ là luân hồi).

Con Cò
***
Nguyên Tác:        Phiên Âm:

賦得古原草送別 Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt
白居易 Bạch Cư Dị

離離原上草 Ly ly nguyên thượng thảo
一歲一枯榮 Nhất tuế nhất khô vinh
野火燒不盡 Dã hoả thiêu bất tận
春風吹又生 Xuân phong xuy hựu sinh
遠芳侵古道 Viễn phương xâm cổ đạo
晴翠接荒城 Tình thuý tiếp hoang thành
又送王孫去 Hựu tống vương tôn khứ
萋萋滿別情 Thê thê mãn biệt tình

Đường Thi Tam Bách Thủ của Hành Đường Thoái Sĩ 蘅塘退士 biên soạn, Trần Uyển Tuấn 陈婉俊 bổ chú

Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄-清-徐倬
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Doanh Khuê Luật Tủy - Nguyên - Phương Hồi 瀛奎律髓-元-方回
Văn Uyển Anh Hoa - Tống - Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉
Bạch Hương San Thi Tập - Đường - Bạch Cư Dị 白香山詩集-唐-白居易
Bạch Thị Trường Khánh Tập - Đường - Bạch Cư Dị 白氏長慶集-唐-白居易

Ghi chú:

Phú đắc: Theo Hán Ngữ Đại Từ Điển, “phú đắc” là một thể thơ Đường luật có thêm những yêu cầu chặt chẽ hơn thơ luật. Ngoài niêm, vận, tiết tấu, bố cục, đối xứng…ý thơ phải giải thích, phát triển và phù hợp với đề bài.

Trước kia khi lấy ý của người xưa làm tựa bài thơ, hai chữ “phú đắc” được thêm trước tựa. Ví dụ, vua Lương Nguyên thời Nam Triều có bài Phú Đắc Lan Trạch Đa Phương Thảo 赋得兰泽多芳草.

Trong các bài thơ thi thời phong kiến, vì đề thi thường có sẵn, phần lớn là câu đối, thành ngữ hay ca dao, tục ngữ hay một câu thơ…nên trước tựa đều có thêm hai chữ “Phú Đắc”. Bài Thảo 草 của Bạch Cư Dị với cái tựa dài Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt 賦得古原草送别 có 2 câu: “Dã hỏa thiêu bất tận, Xuân phong xuy hựu sinh 野火燒不盡,春風吹又生 Lửa dại đốt không tiệt, gió Xuân lại phát sinh”.

Sau này, "Phú Đắc" được coi như một loại phong cách thơ. Các tác giả thơ tức thì thường dùng “phú đắc” làm chủ ngữ. Nhi Dĩ Tập- Cách Mạng Văn Học của Lỗ Tấn 鲁迅 《而已集·革命文学》nói: “cách mạng phú đắc, năm chữ tám vần” chỉ có thể đánh lừa được người chấm thi mù quáng. Đàm Văn Học -Tác Văn Dữ Vận Tư của Chu Quang Tiềm 朱光潜 《谈文学·作文与运思》nói: "Trước đây, những người làm thơ cổ thường sử dụng các từ ‘ngẫu thành’ và ‘phú đắc’ trong tiêu đề ... ‘Phú Đắc’ đặt vần cho chủ đề. Nếu bạn được một từ, bạn có thể sử dụng nó để làm vần cho một bài thơ”.

Li li: dáng vẻ tươi tốt của cỏ xanh.
Khô: khô héo
Vinh: tươi tốt
Phương: mùi thơm nồng đậm của cỏ dại.
Viễn phương: lan xa. xâm lược, chiếm đoạt, phát triển đầy đủ
Tình thúy: Thảo nguyên tươi đẹp và xanh tươi.
Vương tôn: bản gốc nói đến hậu duệ quý tộc, đến bạn bè ở phương xa.
Thê thê: mô tả cây cối trông tươi tốt.

Dịch nghĩa:

Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt Tiễn Biệt Trên Đồng Cỏ

Ly ly nguyên thượng thảo Cỏ mọc cao tươi tốt tua tủa trên đồng,
Nhất tuế nhất khô vinh Mỗi năm một lần mọc mạnh và rồi héo khô.
Dã hoả thiêu bất tận Lửa đồng đốt không bao giờ cháy tiệt,
Xuân phong xuy hựu sinh Gió xuân thổi đem lại sinh sôi nảy nở.
Viễn phương xâm cổ đạo Mùi thơm lan xa ngập các lối đi cũ,
Tình thúy tiếp hoang thành Màu xanh biếc tươi thắm liền thành hoang.
Hựu tống Vương tôn khứ Lại tiễn đưa người bạn thân thiết ra đi,
Thê thê mãn biệt tình Chứa chan tình ly biệt như cỏ xanh tươi.

Dịch Thơ:
Cỏ

Trên đồng cỏ có khi,
Lúc úa lúc xanh rì.
Lửa dại đốt không tiệt,
Xuân về lại phát huy.
Hương thơm ngập lối cũ,
Biêng biếc khắp đường đi.
Tiễn bạn thêm lần nữa,
Chứa chan tình biệt ly.

Grasses by Bai Juyi

Boundless grasses over the plain
Come and go with every season
Wildfire never quite consumes them
They are tall once more in the spring wind.
Sweet they press on the old high- road
And reach the crumbling city-gate….
O Prince of Friends, you are gone again….
I hear them sighing after you.

Notes:

Bai Juyi wrote this poem in an examination at the age of 16. The first four sentences focus on the beauty and vitality of the resisting grass; the last four sentences praise sincere friendship. The poet combined the occasion of departure with natural surroundings to describe profound friendship.

Grass of the Ancient Prairie Bidding Farewell by Bai Juyi (772-846)
Translation by Andrew W.F. Wong (Huang Hongfa)

Lushly, O lushly, you grass of the prairie thrive;
(You demise to arise, each year, gloriously so!)
You die to arise, O each year, gloriously so!
Wildfires do burn: they blaze in vain to purge you;
As spring winds blow: come alive, again you grow.
Your sweet scent spreads far, suffusing the old highway;
Your green blades, sun bathed, to the citadel ruins go.
Once more, I’m seeing my noble friend away --
Cheers, O cheerio! Our parting feelings o’erflow.

Grass

The grass is spreading out across the plain,
Each year, it dies, then flourishes again.
It's burnt but not destroyed by prairie fires,
When spring winds blow they bring it back to life.
Afar, its scent invades the ancient road,
Its emerald green overruns the ruined town.
Again I see my noble friend depart,
I find I'm crowded full of parting's feelings.
Grass (chinese-poems.com)
詩詞 白居易 賦得古原草送別 (sou-yun.cn)

Phí Minh Tâm
***
Phú ĐắcThảo Nguyên Xưa Tiễn Biệt

1/
Tươi tốt trên đồng cỏ
Mỗi năm, lượt héo tươi
Lửa đồng thiêu chẳng dứt
Gió mát thổi sinh sôi
Đường cũ hương lan tỏa
Hoang thành sắc biếc soi
Vương tôn lại tiễn biệt
Chan chứa sầu chia phôi!

2/
Thảo nguyên cỏ tận cuối trời
Mỗi năm mỗi héo lại tươi tốt lành
Lửa đồng chẳng tiệt cỏ xanh
Gió xuân mát thổi lá cành lại sinh
Lối xưa hương tỏa ngát tình
Sắc xanh nối tiếp hoang thành chon von
Laị thêm tiễn bước vương tôn
Biệt ly chan chứa thê lương cõi lòng!

Lộc Bắc
Jun23
***
Bản dịch của Tản Đà:

Đồng cao cỏ mọc như chen
Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn.
Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn,
Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi.
Xa xa thơm ngát dặm dài,
Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa.
Vương tôn đi lại tiễn đưa,
Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.

(Nguồn: Báo Ngày nay, số 86, 21-11-1937)
***
Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Cỏ kia chằng chịt trên gò
Một năm thay đổi vinh khô một lần
Lửa đồng đốt chẳng trừ căn
Lại lên mơn mởn khi xuân trở về
Thơm xa ngào ngạt lối đi
Màu xanh lấp lánh tiếp kề thành hoang
Lại đưa du khách lên đường
Tốt tươi xiết nỗi đoạn trường phân ly

(Nguồn: Trần Trọng Kim, 
Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995)
***
Tiễn Biệt Nơi Hoang Cỏ

Cỏ xanh mơn mởn khắp đồng,
Vào mùa tươi tốt, mênh mông đất trời.
Đến kỳ hạ cháy ỉ ôi,
Héo khô tàn lụi - than đời trách thân.
Lửa tràn hun đốt ngút ngàn,
Vẫn không diệt hết rễ hằng bám sâu.
Chúa Xuân cắp gió kíp mau,
Sanh sôi nảy nở, sắc màu cỏ xanh.
Hương thơm lan tỏa mong manh,
Lối mòn xưa cũ, trâm anh gót hài,
Thắm tươi biếc nõn trải dài,
Thành hoang cổ kính - lá lai sự đời.
Vương tôn giã biệt khắc thời,
Chứa chan lệ nhỏ - xa rồi cỏ non...

Khánh-Hưng
***
Đưa Tiễn Trên Cánh Đồng Cỏ

Xanh rì biêng biếc tận thôn trang
Nắng mới còn non… chốc úa vàng
Lửa Hạ liếm lan đâu tận diệt?
Gió Xuân ùa tới lại cưu mang
Hoa đồng lắng đọng mùi hương cũ
Mây phủ lan tràn ngợp phố hoang
Đưa tiễn bạn hiền rời cố xứ
Lòng sầu sao cỏ vẫn mơn man?

Lục Bát

Cỏ non cao vút bạt ngàn
Đồng xanh thoáng đã ngã vàng vì sao?
Nắng chiều rêu phủ mái sầu
Gió Xuân thổi tạt phai màu thời gian?
Tiễn người lệ úa dung nhan
Con đường ngược dốc phố hoang mang chờ!
Tiễn nhau đâu phải tình cờ
Hồn như cỏ úa vật vờ dõi theo…

Kiều Mộng Hà
June11st2023
***
Góp ý:

Đây là một bài thơ rất hay của Bạch Cư Dị, nhưng BS có vài thắc mắc:

- Nguyên thảo là đồng cỏ, vậy sao lại có chữ cổ? Chắc là đồng cỏ cũ, nơi Bạch đã tiễn bạn nhiều lần.
- Chữ LY, ÔC theo Thi Viện, viết không giống anh Tâm, có thêm chữ truy bên phải. Đó là 2 cách viết khác nhau của cùng một chữ hay là viết theo giản thể và phồn thể?

LY LY, Thi Viện giải nghĩa là bời bời, coi bộ không đúng. Theo tự điển Phổ Thông, Trần Văn Chánh, Nguyễn Quốc Hùng là rời xa, chia lìa, xa cách, đều không hợp với ý câu thơ. Tự điển Nguyễn Tôn Nhan thì giảng LY LY là từ kép, chỉ ngọn rủ xuống, như ngọn lúa, ngọn cỏ. Giải thích này có vẻ hợp lý, vì khi cỏ tốt quá, mọc cao, thì ngọn rủ xuống.

Câu chót, hai chữ THÊ THÊ làm BS nhớ tới câu “phương thảo thê thê anh vũ châu“ trong bài Hoàng Hạc Lâu.

Bài thơ nhắc đến thảo và biệt ly, cũng làm BS nhớ tới bài từ của Lý Dục:

Ly hận khước như xuân thảo,
Cánh hành, cánh viễn, hoàn sinh.

(Hận biệt ly giống như cỏ xuân,
Càng đi, càng xa, vẫn nẩy sinh, nghĩa là không bao giờ hết.)

Tiễn Bìệt Nơi Đồng Cỏ Xưa.

Đồng cỏ xưa mơn mởn,
Mỗi năm khô lại xanh,
Lửa đồng thiêu chẳng hết,
Gió xuân thổi, phục sinh.
Hương xa lùa lối cũ,
Mầu biếc chạm hoang thành,
Lại tiễn vương tôn nữa,
Chan chứa biết bao tình.

Bát Sách.
(Ngày 11/06/2023)
***
Góp Ý:

- Nguyên thảo là đồng cỏ, vậy sao lại có chữ cổ?
Bát Sách ơi, 草原=thảo nguyên mới là đồng cỏ, và danh từ 原=nguyên (cánh đồng) đứng sau tĩnh từ 草= thảo.

原草= nguyên thảo không có nghĩa gì cả và không có trong các từ điển trên internet. Nếu hỏi Google hay Baidu thì ta sẽ được đưa tới các trang chứa danh từ riêng, tên cho thuốc, tác giả, hay tựa đề sách.

Amazon bán một cuốn truyện viết về thời cách mạng văn hóa-hồng vệ binh tựa đề 原草枯荣- 冉莹= Nguyên thảo khô vinh - Nhiễm Oánh. Bảo Google dịch trang quảng cáo của Amazon thì người ta hoặc chịu thua và để nguyên tựa đề, hoặc dịch thành "grass dry". Lý do là vì trong tựa đề này, thảo (khô-tươi) là danh từ chính trên cánh đồng,
 
Tựa đề 赋得古原草送别= Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo

"Cổ nguyên thảo" là cái chi chi? Các trang tiếng Việt trên mạng hiểu cổ nguyên thảo là cỏ trên đồng xanh, cỏ trên đồng xưa, hay cỏ trên cao nguyên, v.v... Cỏ xưa hay cánh đồng xưa ?! Bốn câu đầu không nói về một đồng cỏ riêng biệt trong một thời điểm nào đó nhưng tả sự thay đổi qua thời gian và hai chữ 荒城=hoang thành gợi ý "sông xưa rày đã nên đồng". Hình như người Hoa Lục bây giờ cũng không hiểu tựa đề bài thơ nói gì nên cho dù bài thơ được dùng làm tài liệu giáo khoa bậc tiểu học, người ta chỉ dùng bốn câu đầu và đổi tựa đề thành độc một chữ 草=thảo!

Các trang chữ Hán viết về 赋得=phú đắc cho ta biết thể thơ bắt đầu thời Lương để đặt tên cho các bài phú có một câu thơ cổ trong tựa đề. Trang zn.Wikipedia về bài phú này cho ta biết rằng 赋得体=phú đắc thể là một thể thơ thịnh hành đời Đường với âm vận nhất định và với tựa đề dưới dạng 赋得某某=phú đắc mổ mổ.

赋得体”指的是按照给定的成题成句,用给定的韵脚作的诗,一般是排律。诗题都用“赋得某某”的格式。”phú đắc thể” chỉ đích thị án chiếu cấp định đích thành đề thành cú, dụng cấp định đích vận cước tác đích thi, nhất bàn thị bài luật. thi đề đô dụng “phú đắc mỗ mỗ’ đích cách thức.

某某=mổ mổ nghĩa là ai đó, người nào đó nên "phú đắc Cổ Nguyên Thảo tống biệt" nghĩa là bài phú đặt ra nhân dịp tiễn đưa một người tên Cổ Nguyên Thảo. Rất tiếc rằng người ni tìm không ra người họ Cổ Nguyên này là ai! Không biết bây giờ còn có ai họ Cổ Nguyên bên Tàu và Wikitonary cho biết rằng đây là một họ ở Nhật.

Huỳnh Kim Giám
***
Thơ Cảm Tác:

Đường đi xe kẹt tưng bừng
Nắng xuân vàng nhạt thổi mừng mùa sang
Óc tâm còn rộn lang bang
Vô thường cuộc sống mênh mang không bờ
Thiết tha rồi cũng thờ ơ
Tuổi hạc sắp rụng chẳng mơ ước gi
Nhà quàn ở cuối đường đi
Tới nơi thăm viếng bạn phi thiên đàng

Đồ Cóc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét