Thời
gian qua, phong trào Xướng Họa Thơ rộ nở khắp nơi, không chỉ Xướng Họa
Thơ theo truyền thống là thơ Đường Luật, mà còn lan sang những thể loại
thơ khác, như Thơ Mới, Lục Bát...Một thú vui tao nhã, khiến những người
chơi thơ khó lòng cưỡng lại. Tuy nhiên, có vài quan điểm khá khác biệt,
do chưa thấy tư liệu nào của Tiền nhân hướng dẫn rõ ràng về các nguyên
tắc. Các thư tịch lưu lại cũng không hề đề cập chi tiết về Thi Họa.
Ngày
nay, trên mạng đầy dẫy những nguyên tắc Xướng Họa Thơ. Đây có phải do
người thời nay tự đặt ra, hay có luật mà chúng ta chưa biết?
Trên thực tế, những gì liên quan đến Đường Luật Thi mà chúng ta thấy, tất cả chỉ dựa theo luật từ các sách Quan Vận của Tàu.
Các
học giả Trung Hoa đã soạn nhiều bộ Thi Vận Tập Thành, thường gọi là
sách Quan vận, hay Vận thư. Ðời Tùy có sách Thiết Vận; đời Ðường có sách
Ðường vận, Quảng Vận; đời Tống theo những bộ sách đời trước, soạn ra bộ
Lễ Bộ Vận Lược, được triều đình dùng làm nguyên tắc cho thi vận trong
việc khảo thí. Các đời sau cũng theo gương đời Tống, soạn ra những sách
Quan vận mới. Nhà Nguyên có sách Trung Nguyên Âm Vận; nhà Thanh có sách
Bội Văn Vận Phủ; Trung Hoa dân quốc có Trung Hoa Tân Vận ...Sách Trung
Hoa Tân Vận chưa được đem ra áp dụng . Ðược thông dụng nhất là Bội Văn
Vận Phủ. Nước Việt Nam không có sách Quan vận. Các cụ ngày xưa đều dùng
sách Tàu khi làm thơ chữ Nôm, cũng như khi làm thơ chữ Hán.
"Thơ
Nôm Ta làm theo phép tắc thơ Tàu, mà âm thanh tiếng Ta cũng tương tự
tiếng Tàu. Nên Thi pháp của Ta là thi pháp của Tàu, và Niêm luật thơ Ta
cũng phỏng theo thơ Tàu cả..."(theo Quách Tấn)
Trong các sách
Quan vận, không hề đề cập đến Xướng Họa Thơ. Nhìn vào các Thi Đàn của
người Hoa, kể cả các Thi nhân nổi tiếng từ xưa đến giờ, chúng ta không
hề thấy bài thơ xướng họa nào như của chúng ta.
Như thế, có thể kết luận, Xướng Họa Thơ là một thú vui riêng của Việt Nam, do các Thi nhân Việt sáng tạo.
Xướng Họa xuất hiện bao giờ?
- Quỳnh Quyển Cửu Ca Thi Tập 瓊苑九歌詩集
Theo các tư liệu, Quỳnh Uyển Cửu Ca Thi Tập (Chữ Hán) là tập thơ Xướng Họa đầu tiên của Việt Nam.
"Quỳnh
Uyển Cửu Ca là một tập thơ gồm những bài xướng họa giữa Lê Thánh Tôn và
28 từ thần, xoay quanh 9 đề tài. Tên Quỳnh uyển cửu ca (chín khúc ca ở
vườn Quỳnh) là phỏng theo tích Tống Thái Tổ ban yến cho các tiến sĩ, ở
Quỳnh lâm uyển, trong cung Phủ Khai Phong của triều đình. Chọn 28 từ
thần cũng là phỏng theo điển tích cổ (nhị thập bát tú, nhị thập bát
tướng v.v.) ở Trung Quốc.
Tập thơ xuất hiện vào cuối năm Dần, sau hai
năm Sửu (1493) và Dần (1494) khớp với Lời Tựa của Lê Thánh Tông và Đào
Cử, chứ không phải xuất hiện năm Mão (1495) như ghi chép, chắc là sai
sót nhầm lần của Đại Việt sử ký toàn thư...
Bài tựa của vua, ở đầu
tập thơ ghi rõ: Ta ngồi yên, ngẫm nghĩ hồi lâu, bèn viết ra 9 bài thơ
cận luật, nét chữ rạng rỡ trên giấy vàng. Rồi sai họp các học sĩ họ
Thân, họ Đỗ…tất cả 28 người, ứng với “nhị thập bát tú”, thay nhau cùng
họa có đến vài trăm bài...
Tập thơ đã được nhà vua cho khắc in để
ban bố, hơn một tuần thì xong. Bản in đã mất, những bản hiện còn đều
chép tay. Rải rác, có một số bài: Tựa và thơ được in trong các sách thời
sau. Tập thơ có 9 bài xướng của Lê Thánh Tông, 28 từ thần, mỗi người
họa 9 bài, cộng 29×9=261 bài. Thì hiện còn, qua thống kê, chỉ khoảng
trên dưới 250 bài". (theo GS Bùi Duy Tân)
Như vậy Thơ Xướng Họa có
thể xuất hiện vào khoảng thế kỷ 15, Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú của vua Lê
Thánh Tôn khởi xướng. (ngoài ra, những người chơi thơ chắc không lạ gì
bài thơ Xướng Họa của Nguyễn Trãi và Thị Lộ, mặc dù đây chỉ là truyền
thuyết).
Có hay không Luật Xướng Họa?
Trước hết, chúng ta cùng nhau tìm hiểu Xướng Họa là gì.
- Theo Hán Việt Tự Điển Trích dẫn
倡: Xướng là Hát, làm thơ, làm ca. § Ai làm trước gọi là xướng
和:
Họa; hùa theo, hưởng ứng đáp ứng, chấp thuận, nhận lời. 倡和: Xướng Họa
là một người đề xuất chủ trương, người khác phụ họa, hô ứng cùng nhau.
Dùng thi từ thù đáp với nhau.
- Theo Đại Tự Điển Hán Việt:
倡 Xướng: Nêu ra, đề ra
和 Họa: là hòa theo. Lên tiếng đáp lại — Đáp ứng, tán thán
倡和 Xướng hoạ: Đọc lên và đáp lại
- Theo Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh
倡: Xướng: dẫn đạo, phát khí ra trước hết
倡:Họa: Đáp tiếng lại, hợp nhau.
倡和 Xướng hoạ: Bên Xướng ra, Bên Họa lại (Bên mở ra trước, phát ra trước. Bên đáp tiếng lại).
Nói chung Xướng Họa có nghĩa là nêu ra, đưa ra và đáp lại, đối lại.
Như thế Xướng Họa không chỉ là đối đáp bằng bài thơ như chúng ta thường hiểu, mà còn đối đáp câu.
Như vậy Xướng Họa gồm có Cú Đối (Đối Câu) và Thi Họa (Đối đáp Thơ).
1 - Cú Đối
Đối có nguồn gốc từ Đối Liên bên Tàu, xuất hiện hơn 3000 năm trước,
được xem là tinh hoa của văn hóa Trung Hoa, có xu hướng Biền Ngẫu, nên
sau này còn gọi là Đối Ngẫu. Nhưng phải đợi đến thời Lục Triều, Đối Ngẫu
mới phát triển mạnh.
Đối là từ viết cho gọn của "Đối Ngẫu". Đối
có nghĩa là đáp, chống lại. Ngẫu có nghĩa là đi đôi. Như vậy Đối Ngẫu
tức là hai câu đi đôi với nhau, có ý và từ chống lại hay trả lời, hoặc
bổ khuyết cho nhau.
Những quy định về luật của câu đối chủ yếu dựa
trên những cặp đối ngẫu trong thể Đối Phú, các cặp Thực và Luận trong
thơ Đường luật. Từ các sách của Phan kế Bình, Trần Trọng Kim, Quách Tấn,
Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Ngọc, Nghiêm Toản .v.v.. đều có bài viết
rất tường tận về phép làm Câu Đối.
Quan chẳng quan thì dân (b) / chiếu trung đình ngất ngưởng ngồi trên (b)/nào lính, nào
cả, nào bàn ba (b)/ xôi làm sao, thịt làm sao, đóng góp làm sao (b); thủ lợn nhìn lâu trở
cả mắt (t).
Già chẳng già thì trẻ (t) / đàn tiểu tử nháp nhô đứng trước (t); này phú, này thơ, này
đoạn một (t) / bằng là thế, trắc là thế, lề lối là thế (t) mắt gà đếm mãi mỏi bên tai (b)" (theo Dương Quảng Hàm)
2 - Thi Họa
Đối đáp với nhau bằng một bài thơ cùng một thể, một vần, để tỏ sự đồng tình hay chống đối.
Thay
vì như Cú Đối chỉ có 1 câu (có thể dài vắn tùy theo người làm Vế Ra),
nói đúng hơn, Thi Họa có thể xem như là Cú Đối nhưng là một bài thơ có
nhiều câu. Thể thơ dùng mở đầu cho Thi Họa thường là thơ Đường Luật Thất
Ngôn Bát Cú. Bài làm đầu tiên là thơ xướng, bài làm sau là thơ hoạ.
Không
như Cú Đối, trong các sách về Việt Thi, chúng ta chưa hề thấy bài viết
nào chỉ dẫn tường tận về Luật của Thi họa. Các Cụ viết sách có quên
chăng?
Trò chơi nào cũng phải có quy luật của nó. Xướng Họa Thơ không ngoại lệ, vẫn có luật để mọi người theo đó mà chơi.
Quá trình hình thành Luật của các dạng thơ:
Thơ
Lục Bát tuy xuất hiện rất lâu, nhưng thuở trước đâu ai nghĩ phải có
Luật, chỉ thuận miệng hát hò, sao cho có vần có điệu, nghe êm tai dễ
nhớ, dần dà được sử dụng rộng rãi. Tiền Nhân không hề đặt luật, chỉ
thuận miệng gieo vần, lâu dần thành thói quen. Đến sau này, các học giả
khi nghiên cứu ca dao, mới đặt ra Luật Thơ Lục Bát, như chúng ta biết.
Xa
hơn nữa, như Thơ Đường Luật, cũng được kết hợp từ Thơ Cổ Thể, Đối Ngẫu
và áp dụng với Tứ Thanh Bát Bệnh của Thẩm Ước mà hình thành. Tuy thế
cũng cần thời gian, từ cuối đời Tùy đến thời Sơ Đường mới hoàn chỉnh.
Nhìn lại nền thi ca của Việt Nam, trong ca dao có rất nhiều câu hò đối đáp, được truyền khẩu đến ngày nay. Như:
- Tóc em dài sao em không bới
Để chi dài bối rối dạ anh?
- Tóc em dài em cài hoa thiên lý
Anh ngó làm gì cho bối rối dạ anh?
hay:
- Đố anh chi sắc hơn dao
Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời?
– Em ơi mắt sắc hơn dao
Bụng sâu hơn biển, trán cao hơn trời
- Hò ơ ớ ơ…Gió năm non thổi lòn hang chuột
Tui thấy cô Ba chèo xuồng (ớ ờ) đứt ruột … đứt gan (ơ ơ)…
- Hò ơ ớ ơ…Gió năm non thổi lòn hang chuột
Tui thấy anh chèo xuồng (ớ ờ) tui cũng đứt ruột … bầm gan (ơ ơ)…
và còn rất nhiều.
Trong
Xướng Họa Thơ chúng ta còn có bài thơ Xướng Họa 4 câu 7 chữ, tương
đồng với lối Hò Đối Đáp, được truyền khẩu, nhưng không biết có phải do
Nguyễn Trãi và Thị Lộ đối đáp hay không.
Ả ở nơi nào bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa được mấy con.
Nguyễn Trãi
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có hỏi chi con.
Thị Lộ
Để
mở một hướng mới trong những lúc trà dư tửu hậu, đồng thời nâng thú
chơi thơ lên một tầm cao mới, các Cụ Nhà Ta đã mượn kỹ thuật từ Hò đối
đáp trong dân gian, kết họp với luật của Cú Đối, Đường Luật Thi, chỉnh
sửa thêm thắc đôi chút như Hòa Vận... để thành Luật bất thành văn cho
Xướng Họa Thơ.
Trò chơi nào cũng lắm công phu. Theo thời gian, Luật
Xướng Họa được các nhà thơ các thế kỷ trước đến nay, cải tiến không
ngừng, nhờ thế chúng ta đã có Luật Xướng Họa hoàn chỉnh và được mọi
người chấp nhận.
Kết Luận
Luật Xướng Họa Thơ của
chúng ta đã hình thành theo quá trình như thế. Nếu xét cho kỹ, Luật
Xướng Họa Thơ vẫn có Luật căn bản chính là Luật Đối. Sở dĩ Luật Xướng
Họa không có luật chính thức vì những luật Thơ có văn bản đều là của
Tàu. Còn Luật Thơ của người Việt chúng ta đều xuất phát từ truyền miệng,
lý do là Thơ của ta không có trong các kỳ thi tuyển chọn nhân tài, chỉ
để giải trí vui chơi.
Tuy không hề có Văn Bản chính thức, nhưng Luật
Xướng Họa Thơ hiện tại đã được giới thi nhân chấp nhận, như thế xem như
đã thành Luật Chính Thức (xem Xướng Họa Thơ từ các Diễn đàn trên Mạng).
Đã
là trỏ chơi thì phải có luật chơi. Xướng Họa Thơ cũng thế, những ai
chấp nhận chơi thì phải chấp nhận các nguyên tắc mà tất cả đã chấp
nhận, không vì lý do gì mà trống đánh xuôi còn kèn thì thổi ngược, theo
luật rừng, ai muốn làm gì thì làm, như thế tất cả sẽ rối lên, và đâu thể
gọi là một cuộc chơi tao nhã, không còn gì là thú vui độc đáo, đậm nét
riêng của Người Việt Chúng Ta.
Huỳnh Hữu Đức
nhiều luật quá
Trả lờiXóa