Các Thiền Sư Việt Nam đời Lê Lý Trần vào thế kỷ 11 và 12 có để lại nhiều bài kệ dạy đệ tử. Có nhiều bài kệ là những tuyệt tác thơ Đường luật ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt... Tuy nhiên khi đọc các bài kệ, ta cần chú ý đến nội dung giảng dạy Phật Pháp hơn là hình thức thơ. Muốn biết thêm tiêu sử của thiền sư và huyền thoại chung quanh bài kệ, xin xem Trang Nhà Thường Chiếu. Dưới đây là vài bài kệ được biết đến nhiều nhất đời Trần. Mỗi bài kệ được trình bày với nguyên bản chữ Hán, phiên âm ra Hán Việt, dịch nghĩa và tạm dịch thơ ra Việt ngữ. (Phí Minh Tâm) Thiền Sư Đời Trần:
1. Trần Thái Tông 2. Tuệ Trung Thượng Sỹ 3. Trần Thánh Tông 4. Trần Nhân Tông 5. Pháp Loa Thiền Sư 6. Huyền Quang Thiền Sư 7. Trần Thì Kiến 8. Trương Hán Siêu 9. Trần Quang Triều 10. Nguyễn Trung Ngạn 11. Trần Nguyên Đán
Ký Thanh Phong Am Tăng Đức Sơn Trần Thái Tông* Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh Cá trung tư vị vô nhân thức Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh *Tên Trần Cảnh (1218-1277)
寄清風庵僧德山 陳太宗 風打松關月照亭 心期風景共凄清 個中滋味無人識 付與山僧樂到明 Dịch nghĩa: Gởi Nhà Sư Đức Sơn Ở Am Thanh Phong
Gió đập vào cổng thông, trăng chiếu sáng trên sân Tâm hẹn ước phong cảnh cùng trong sáng thanh tịnh Trong đó có bao nhiêu thú vị riêng tư không người biết Để cho nhà nhà sư trong núi đuợc an lạc đến trời sáng. Dịch thơ: Gửi Nhà Sư Đức Sơn Am Thanh Phong
Gió thổi qua sân trăng sáng ngời Tâm cùng phong cảnh tịnh nơi nơi Bao nhiêu thú vị không người biết Để sư an lạc đến hừng trời. To The Monk Duc Son At Thanh Phong Temple The wind beats at the pine gate, the moon shines on the yard My heart is one with the landscape, quiet clear and cold In which there are many private blessings, yet nobody knows Leaving the monk in the mountain to enjoy his bliss until dawn.
Ngẫu Tác Tuệ Trung Thượng Sỹ*
Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn) Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên Tự thị quyện thời tâm tự tức Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền. *Tên Trần Tung (1230-1291)
偶作 慧中上士 堂中端座寂無言 閑看崑崙一縷煙 自是倦時心自息 不關攝念不關禪
Dịch nghĩa: Chợt Hứng Làm Thơ
Ngồi ngay ngắn giữa nhà, yên lặng không nói năng Nhàn nhã ngắm làn khói bay trên núi Côn Luân Khi nào thấy mệt thi tâm tự nghỉ ngơi Chẳng cần niệm cũng chẳng phải thiền.
Dịch thơ: Chợt Hứng Làm Thơ
Ngay ngắn giửa nhà, ngồi lặng yên Nhàn nhìn khói núi bốc trên triền Khi thân mỏi mệt, tâm tự nghỉ Chẳng niệm nam mô, chẳng nhập thiền.
Sudden Inspiration to Write a Poem
Sitting straight and quietly in the middle of the room Leisurely watching the smoke rising on Con Luan Mountain When the body is tired, the mind automatically stops activities. There is no need to recite the Buddha’s name, no need to meditate.
=============================== Độc Đại Tuệ Ngữ Lục Hữu Cảm Trần Thánh Tông*
Đả ngoã toàn qui tam thập niên Kỷ hồi hãn xuất vị tham thiền Nhất triêu thức phá nương sinh diện Tỵ khổng nguyên lai một bán biên
Nhãn tiền vô sắc nhĩ vô thanh Nhất phiến tâm đầu tự đả thành Thanh sắc bất can thần thiệt ngoại Nhậm tha bác báo dữ đô dinh. *Tên Trần Hoàng(1240 - 1290)
讀大慧語錄有感 陳聖宗
打瓦鑽龜三十年 幾回汗出為參禪 一朝識破娘生面 鼻孔元來沒半邊 眼前無色耳無聲 一片心頭自打成 聲色不干唇舌外 任他剝報與都丁
Dịch nghĩa: Cảm Xúc Khi Đọc Đại Tuệ Ngữ Lục
Ba mươi năm dùi rùa đập ngói (1) Mấy lần toát mồ hôi vì tham cứu đạo Thiền Một sớm bỗng thấy hết được khuôn mặt của mẹ (2) Thì ra khuôn mặt ấy chỉ có một nửa. Trước mắt không có màu sắc, bên tai không có âm thanh(3) Cái tâm của mình tự cho là có đấy thôi Thanh và sắc không can dự tới, ở ngoài môi và lưỡi Mặc cho chúng “bác” hay “báo”, “đô” hay “dinh.” Dịch thơ: Cảm Xúc Khi Đọc Đại Tuệ Ngữ Lục
Tu hành kham khổ ba mươi năm Nhập định thiền na áo ướt dầm Một sớm bổng nhiên nhìn thấy mẹ Mất đi một nửa phần không tâm. Trước mắt sắc không tai không thanh Âm thanh màu sắc do tâm thành Tuyệt nhiên thanh sắc không can dự Mặc chúng phô bày cái sắc danh.
Emotion When Reading “The Great Wisdom Record” For thirty years, I drilled the turtle shells and broke tiles (1) to practice the Way Many times I felt into a cold sweat while entering samadhi One morning I suddenly saw the mother’s original face (2) It turns out that the other half of the truth has been lost in my mind. Before the eyes there is no form, by the ears there is no sound (3) Forms and sounds are only made by the mind They have nothing to do beyond the lip and tongue Pay no attention even if they call out and show them to you.
(1) To practice the Path, one does easy tasks like breaking tiles and difficult tasks like drill turtle shells. (2) Truth, like every thing else, has 2 faces: positive and negative. One often differentiates and see only the face one likes or dislikes. (3) These four lines point to the Buddhist doctine of emptyness, which is based on the natural law of interdependence origination. All dharmas: things, living beings, processes…are created by favorable conditions coming together. These conditions continually change and deteriorate. So things are impermanent and, without a nature of their own, have no independent existence and are ultimately empty. This practice, seeing the mind as impermanent, as an endless series of feelings and sentiations one after another, and seeing all things being interdependent, will lead to the ultimate awareness that there is no self, no permanent identily, only emptiness or buddha nature common to all. =============================== Cư Trần Lạc Đạo Trần Nhân Tông*
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. *Tên Trần Khâm (1258 - 1308)
居塵樂道 陳仁宗
居塵樂道且隨緣 饑則飧兮困則眠 家中有宝休尋覓 對鏡無心莫問禪
Dịch nghĩa: Sống Đời Vui Đạo
Sống giữa trên đời, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo Đói thì ăn, mệt thì ngủ Trong nhà sẵn sẳn đầy châu báu, không phải tìm đâu khác Trước cảnh giới mà không để tâm, thì cần chi hỏi về thiền.
Dịch thơ: Sống Đời Vui Đạo
Sống đời vui đạo hãy tùy duyên Khát uống đói ăn mệt ngủ liền Châu báu đầy nhà không cần kiếm Yên tâm trước cảnh hỏi chi thiền.
Live in the World and Practice with Joy Living in the world and practicing the Path with joy, accord with conditions Eat when hungry, sleep when tired You already possess precious jewels, you do not have to look for it elsewhere Facing the world with a mind that is empty, what use is meditation? =============================== Nhập Tục Luyến Thanh Sơn Pháp Loa Thiền Sư Sơ cấu cùng thu thủy Sàm nham lạc chiếu trung Ngang đầu khan bất tận Lai lộ hựu trùng trùng *(1284 - 1330)
入俗戀青山 法螺禪師 疏瘦窮秋水 巉礹落照中 昂頭看不盡 來路又重重
Dịch nghĩa: Vào Cõi Tục Nhớ Núi Xanh
Đá khô cằn in bóng xuống đáy nước mùa thu Núi hiểm hóc bơ vơ dưới ánh sáng mặt trời Ngẩng đầu lên nhìn bất tận Con đường đi tới lại càng xa vời vợi.
Dịch thơ: Vào Cõi Tục Nhớ Núi Xanh
Nước thu in hình đá Núi bỏng dưới ác tà Ngẩng đầu nhìn vô tận Con đường vời vợi xa.
Entering the World Longing for Green Mountain The bare rocks mirror in the autumn water The broken peaks bake in the sunlight Looking up, there is nothing to stop the view And the road ahead appears endless. =============================== Diên Hựu Tự Huyền Quang Thiền Sư
Thượng phương thu dạ nhất chung lan Nguyệt sắc như ba phong thụ đan Si vẫn đảo miên phương kính lãnh Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn Vạn duyên bất nhiễu thành già tục Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan Tham thấu thị phi bình đẳng tướng Ma cung Phật quốc hảo sinh quan. *(1254 - 1334)
延祐寺 玄光禪師
上方秋夜一鐘闌 月色如波楓樹丹 鴟吻倒眠方鏡冷 塔光雙峙玉尖寒 萬緣不擾城遮俗 半點無憂眼放寬 參透是非平等相 魔宮佛國好生觀 Dịch nghĩa: Chùa Diên Hựu (1)
Đêm thu, tiếng chuông văng vẳng từ phương trên chùa Ánh trăng như sóng bao quanh cây phong lá đỏ Cú mèo (2) nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá Hai ngọn tháp sáng song song trơ trọi như hai ngón tay ngọc lạnh buốt Muôn vạn nhân duyên không quấy rối là bức thành che chở thế tục Không lo lắng dù nửa điểm nhỏ nên tầm mắt mở rộng Hiểu thấu tướng bình đẳng của vạn pháp thì phải trái đều như nhau (3) Thì xem cung ma cũng giống như đất Phật. Dịch thơ: Chùa Diên Hựu
Đêm thu văng vẳng chuông chùa Sóng trăng phong đỏ phân bua nỗi niềm Cú rồng đáy nước ngủ im Tháp song song lạnh trơ tìm tâm cang Muôn duyên che chở thế gian Không phiền chuyện nhỏ tâm an rộng nhìn Bình đẳng vạn pháp trọng khinh Cung ma đất Phật bóng hình như nhau.
Dien Huu Pagoda (1)
In the autumn night, the temple bell is calling The moonlight comes down like waves covering the red maple leaves The owl (2) is sound asleep upside down in the chilly pond water, which looks like a square mirror The two bright towers stand parallel unadorned like two icy jade fingers Thousands of unentangled causes and conditions protect the desire world Having no worries about minor points , one’s vision is widened Understanding the equality of all dharmas, there is no right and wrong (3) The ghost palace is the same as the Buddha land.
(1) Chùa Diên Hựu là Chùa Một Cột, được vua Lý Thái Tông cho dựng năm Kỷ Dậu (1049), nay vẫn còn ở Hà Nội sau nhiều lần trùng tu. (2) “Si vẫn” là hình những con chim cú hoặc rồng được khắc hoặc đắp nổi lên cột kèo các đình chùa. (3) Bình đẳng tướng - Tất cả pháp tướng: đời/đạo, vọng/chân, có/không, sanh/diệt, tội/phước, thiện/ác, chánh/tà, ma/Phật, … đều phát sanh từ Chân Như, là biểu hiện của Chân Như, nên được coi là bình đẳng như hai mặt của một đồng tiền. =============================== Tặng An Lãng Tự Phổ Minh Thiền Sư Trần Thì Kiến
Ẩn bất lâm tuyền chân đại ẩn Tu ư gia tự tức chân tu Thử nhật tham thiền như mộng giác Hưu tương vãng sự quái Trào Chu.
贈安朗寺普明禪師 陳時見
隱不林泉真大隱 修於家寺即真修 此日參禪如夢覺 休將往事怪潮州
Dịch nghĩa: Đề Tặng Thiền Sư Phổ Minh Chùa An Lãng
Ẩn cư mà không ở nơi rừng sâu suối nguồn mới là ẩn thân Tu hành ngay tại chùa trong nhà mới là chân tu Hôm nay được tham vấn Thiền như vừa tỉnh mộng Không đem chuyện cũ mà trách Thứ sử Triều Châu. (1) Dịch thơ: Đề Tặng Thiền Sư Phổ Minh Chùa An Lãng
Không ở suối rừng tức ẩn thân Tại gia hành đạo mới tu chân Tham thiền thức tỉnh hôm nay ngộ Thứ sử Triều Châu nhận Phật ân.
Dedicated To Chan Master Pho Minh of An Lang Temple To seek refuge not in deep forest and source stream is a Great Refuge To practice the Path in the home temple is the True Practice Awaken from deep samadhi today is like wake up from a dream Do not use an old story blaming the prefect of Trieu Chau.(1)
(1) Hàn Dũ, thi sỉ đời Đường, vì can vua Đuờng Hiến Tông trong việc cung nghênh xá lợi Phật thoát bị tử hình, nhưng bị giáng chức làm Thứ Sử Triều Châu (Trào Chu) tỉnh Quảng Đông. Khi về già, Hàn Dũ trở về đạo Phật. =============================== Dục Thúy Sơn Trương Hán Siêu
Sơn sắc thượng y y Du nhân bất hồ quy? Trung lưu quang tháp ảnh Thượng giới khải nham phi Phù thế như kim biệt Nhàn danh ngộ tạc phi Ngũ Hồ thiên địa khoát Hảo phóng cựu ngư ky. 浴翠山 張漢超
山色尚依依 遊人胡不歸 中流光塔影 上界塏岩扉 浮世如今別 閒名悟昨非 五湖天地闊 好訪舊漁磯 Dịch nghĩa: Núi Dục Thúy
Màu núi gần y như cũ không thay đổi Người đi chơi sao chưa thấy về? Giửa dòng ánh sáng có bóng của tháp Người trên mở cổng đá nham Thế gian chìm nỗi khác biệt như ngày nay Mới biết cái danh nhàn chẳng có gì hay ho Vùng Ngũ Hồ trời đất rộng bao la Tìm tảng đá cũ ngồi câu cá. Dịch thơ: Núi Dục Thúy Màu núi y như chẳng đổi thay Người đi cớ sự chưa về đây Giữa dòng ánh sáng lung linh tháp Cổng đá trời cao đã mở bày. Trần thế nổi trôi nay khác biệt Danh hờ biết rõ không gì hay Bao la trời đất Ngũ Hồ rộng Tảng đá ngồi câu khó được ngay. Duc Thuy Mountain
The color of the mountain appears unchanged Why has the traveller not returned? A tower stands in the stream of light Haven has opened the stone gate The saha world has changed so much to the presen The idle fame has no meaning The Five Lakes area is open huge space Find the old stone above the water to sit and fish. =============================== Đề Gia Lâm Tự Trần Quang Triều
Tâm khôi oa giác mộng Bộ lý đáo Thiền đường Xuân vãn hoa dung bạc Lâm u thiền vận trường Vũ thu thiên nhất bích Trì tịnh nguyệt phân lương Khách khứ tăng vô ngữ Tùng hoa mãn địa hương. 題嘉林寺 陳光朝
心灰蝸角夢 步履到禪堂 春晚花容薄 林幽蟬韻長 雨收天一碧 池凈月分涼 客去僧無語 松花滿地香 Dịch nghĩa: Viết Ở Chùa Gia Lâm
Lòng nguội lạnh với giấc mơ danh lợi nhỏ bé Đi tản bộ đến thiền đường Cuối xuân, dáng hoa mỏng mảnh Rừng âm u, tiếng ve sầu dai dẳng Mưa tạnh, trời một màu xanh biếc Ao trong, trăng lạnh lẽo bị chia đôi Khách ra về, sư chẳng nói tiếng nào Đất thơm ngào ngạt mùi hoa tùng.
Dịch thơ: Viết Ở Chùa Gia Lâm
Đã nguội, lòng lợi danh Rão bước đến thiền thành Xuân tàn, hoa mong mảnh Ve sầu thấu rừng xanh Mưa tạnh, trời biên biếc Ao trong, trăng hanh hanh Khách về, sư chẳng nói Đất ngát hương thông lành.
Written at Gia Lam Temple My heart was cold to the small dream of fame I walked to the meditation hall Late spring, flowers were fragile The forest was dark and deep, the cicada chant tedious The pond was clear and the cold moon split into two The rain stopped and the sky was one deep blue The visitor left and the monk had no words The ground was saturated with pine flower flagrance. =============================== Túc Hoa Âm Tự Nguyễn Trung Ngạn
Ngẫu bạng chiêu đề túc, Tăng lưu bán tháp phân. Thạch tuyền triêu cấp thủy, Chỉ trướng dạ miên vân. Tùng tử lâm song trụy, Viên thanh cách ngạn văn. Chúc ngư sao mộng tỉnh, Hoa vũ lạc tân phân.
宿花陰寺 阮忠彥
偶徬招提宿 僧留半榻分 石泉朝汲水 紙帳夜眠雲 松子臨窗墜 猿聲隔岸聞 粥魚敲夢醒 花雨落繽紛 Dịch nghĩa: Nghỉ Đêm Ở Chùa Hoa Âm
Ngẫu nhiên ngủ đêm trong ngôi chùa Sư giữ lại và nhường cho nửa giường Sáng sớm đi lấy nước ở suối đá Ban đêm ngủ với mây trong trướng (màn) giấy Quả thông rơi bên ngoài cửa sổ Tiếng vượn kêu từ bờ bên kia Tiếng mõ như rụt rè làm tỉnh mộng Mưa như hoa rơi rực rỡ tưng bừng. Dịch thơ: Nghỉ Đêm Ở Chùa Hoa Âm
Ngẫu nhiên ngủ lại chùa Hoa Âm Sư cụ nhường cho nữa chỗ nằm Mai sớm, nước đem từ suối đá Mây đêm, trướng giấy ẩn mùi trầm Trái thông rụng rớt ngoài song cửa Vượn hú từng hồi thấu cõi âm Tiếng mõ canh khuya làm tỉnh mộng Mưa rơi rực rỡ tợ hoa tâm. Spending the Night at Hoa Am Temple Unexpectedly, I spent the night at a temple The monk offered and shared half of his bed In the morning I carried water from the rock stream At night I slept in the cloud behind paper scrolls Pine cones fell by the window Gibbons called from the other side of the stream The sound of the wooden fish woke me from my dream The rain like flowers fell noisily and colorfully. =============================== Sơn Trung Khiển Hứng Trần Nguyên Đán
Thập niên chính tỉnh phụ thu đăng Tùng hạ hành ngâm ỷ sấu đằng Tùy mã vọng trần vô tục khách Khấu môn vấn tự hữu thi tăng Thoái nhàn Lục Dã tri hà cập? Tán cấp Thanh miêu tạ bất năng Toạ đãi công thành danh toại hậu Nhất khâu lão cốt dĩ lăng tằng. 山中遣興 陳元旦
十年政省負秋燈 松下行吟倚瘦藤 隨馬望塵無俗客 叩門問字有詩僧 退閒綠野知何及 散給青苗謝不能 坐待功成名遂後 一丘老骨已崚嶒 Dịch nghĩa: Trong Núi Cảm Hứng
Mười năm lo chính sự, quên chăm xóc cây đèn mùa thu (tuổi già) Dưới rạng thông, chống gậy khẳng khiêu vừa đi vừa ngâm thơ Không có khách thăm thì theo sau ngựa xem bụi trần Có vị sư biết thơ thì gõ cửa hỏi chữ Lui về Lục Dã sống an nhàn chớ biết làm sao theo kịp Xin từ chẳng tiền theo phép Thanh Miêu (không muốn vào quan trường). Ngồi đợi sau này công thành danh toại, công danh thành tựu thỏa thích Thì nắm xương già đã thành mồ cao chót vót. Dịch thơ: Trong Núi Cảm Hứng
Việc nước mười năm bỏ việc nhà Dưới thông chống gậy vịnh ngân nga Khách thưa theo ngựa ngắm nhìn bụi Gõ cửa hỏi thơ sư cụ già Lục Dã thanh nhàn sao sánh kịp Xin từ chẳng nhận chút gần xa Ngồi đợi công thành danh toại đến Nắm xương tàn tạ đã ra ma.
Inspiration in the Mountain
I spent ten years in government affairs and neglected my old age Under the pine trees, I leaned on a slender stick to walk and recite poetry No guest, I followed the horse and watched dust settle If there is an educated monk, I knocked at his door and asked about literature Back to Luc Da to live leisurely, how could I catch up? I declined the money share as allowed by the administrative rule Sitting back to wait for later success and fulfillment My old bones would have been a tall heap of dust. Phí Minh Tâm
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét