Thứ Tư, 6 tháng 7, 2022

Thiền Sư Việt Nam Đời Trần

 

Các Thiền Sư Việt Nam đời Lê Lý Trần vào thế kỷ 11 và 12 có để lại nhiều bài kệ dạy đệ tử. Có nhiều bài kệ là những tuyệt tác thơ Đường luật ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt... Tuy nhiên khi đọc các bài kệ, ta cần chú ý đến nội dung giảng dạy Phật Pháp hơn là hình thức thơ. Muốn biết thêm tiêu sử của thiền sư và huyền thoại chung quanh bài kệ, xin xem Trang Nhà Thường Chiếu.
Dưới đây là vài bài kệ được biết đến nhiều nhất đời Trần. Mỗi bài kệ được trình bày với nguyên bản chữ Hán, phiên âm ra Hán Việt, dịch nghĩa và tạm dịch thơ ra Việt ngữ.
(Phí Minh Tâm)

Thiền Sư Đời Trần:

1. Trần Thái Tông
2. Tuệ Trung Thượng Sỹ
3. Trần Thánh Tông
4. Trần Nhân Tông
5. Pháp Loa Thiền Sư
6. Huyền Quang Thiền Sư
7. Trần Thì Kiến
8. Trương Hán Siêu
9. Trần Quang Triều
10. Nguyễn Trung Ngạn
11. Trần Nguyên Đán

Ký Thanh Phong Am Tăng Đức Sơn
Trần Thái Tông*
Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh
Cá trung tư vị vô nhân thức
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh
*Tên Trần Cảnh (1218-1277)

寄清風庵僧德山
陳太宗
風打松關月照亭
心期風景共凄清
個中滋味無人識
付與山僧樂到明

Dịch nghĩa:
Gởi Nhà Sư Đức Sơn Ở Am Thanh Phong

Gió đập vào cổng thông, trăng chiếu sáng trên sân
Tâm hẹn ước phong cảnh cùng trong sáng thanh tịnh
Trong đó có bao nhiêu thú vị riêng tư không người biết
Để cho nhà nhà sư trong núi đuợc an lạc đến trời sáng.

Dịch thơ:
Gửi Nhà Sư Đức Sơn Am Thanh Phong

Gió thổi qua sân trăng sáng ngời
Tâm cùng phong cảnh tịnh nơi nơi
Bao nhiêu thú vị không người biết
Để sư an lạc đến hừng trời.


To The Monk Duc Son At Thanh Phong Temple
The wind beats at the pine gate, the moon shines on the yard
My heart is one with the landscape, quiet clear and cold
In which there are many private blessings, yet nobody knows
Leaving the monk in the mountain to enjoy his bliss until dawn.

Ngẫu Tác
Tuệ Trung Thượng Sỹ*


Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn)
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên
Tự thị quyện thời tâm tự tức
Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền.
*Tên Trần Tung (1230-1291)

偶作
慧中上士

堂中端座寂無言
閑看崑崙一縷煙
自是倦時心自息
不關攝念不關禪

Dịch nghĩa:
Chợt Hứng Làm Thơ


Ngồi ngay ngắn giữa nhà, yên lặng không nói năng
Nhàn nhã ngắm làn khói bay trên núi Côn Luân
Khi nào thấy mệt thi tâm tự nghỉ ngơi
Chẳng cần niệm cũng chẳng phải thiền.

Dịch thơ:
Chợt Hứng Làm Thơ


Ngay ngắn giửa nhà, ngồi lặng yên
Nhàn nhìn khói núi bốc trên triền
Khi thân mỏi mệt, tâm tự nghỉ
Chẳng niệm nam mô, chẳng nhập thiền.


Sudden Inspiration to Write a Poem

Sitting straight and quietly in the middle of the room
Leisurely watching the smoke rising on Con Luan Mountain
When the body is tired, the mind automatically stops activities.
There is no need to recite the Buddha’s name, no need to meditate.

===============================
Độc Đại Tuệ Ngữ Lục Hữu Cảm
Trần Thánh Tông*


Đả ngoã toàn qui tam thập niên
Kỷ hồi hãn xuất vị tham thiền
Nhất triêu thức phá nương sinh diện
Tỵ khổng nguyên lai một bán biên

Nhãn tiền vô sắc nhĩ vô thanh
Nhất phiến tâm đầu tự đả thành
Thanh sắc bất can thần thiệt ngoại
Nhậm tha bác báo dữ đô dinh.
*Tên Trần Hoàng(1240 - 1290)

讀大慧語錄有感
陳聖宗

打瓦鑽龜三十年
幾回汗出為參禪
一朝識破娘生面
鼻孔元來沒半邊

眼前無色耳無聲
一片心頭自打成
聲色不干唇舌外
任他剝報與都丁

Dịch nghĩa: Cảm Xúc Khi Đọc Đại Tuệ Ngữ Lục

Ba mươi năm dùi rùa đập ngói (1)
Mấy lần toát mồ hôi vì tham cứu đạo Thiền
Một sớm bỗng thấy hết được khuôn mặt của mẹ (2)
Thì ra khuôn mặt ấy chỉ có một nửa.
Trước mắt không có màu sắc, bên tai không có âm thanh(3)
Cái tâm của mình tự cho là có đấy thôi
Thanh và sắc không can dự tới, ở ngoài môi và lưỡi
Mặc cho chúng “bác” hay “báo”, “đô” hay “dinh.”


Dịch thơ: Cảm Xúc Khi Đọc Đại Tuệ Ngữ Lục

Tu hành kham khổ ba mươi năm
Nhập định thiền na áo ướt dầm
Một sớm bổng nhiên nhìn thấy mẹ
Mất đi một nửa phần không tâm.

Trước mắt sắc không tai không thanh
Âm thanh màu sắc do tâm thành
Tuyệt nhiên thanh sắc không can dự
Mặc chúng phô bày cái sắc danh.


Emotion When Reading “The Great Wisdom Record”
For thirty years, I drilled the turtle shells and broke tiles (1) to practice the Way
Many times I felt into a cold sweat while entering samadhi
One morning I suddenly saw the mother’s original face (2)
It turns out that the other half of the truth has been lost in my mind.
Before the eyes there is no form, by the ears there is no sound (3)
Forms and sounds are only made by the mind
They have nothing to do beyond the lip and tongue
Pay no attention even if they call out and show them to you.

(1) To practice the Path, one does easy tasks like breaking tiles and difficult tasks like drill turtle shells.
(2) Truth, like every thing else, has 2 faces: positive and negative. One often differentiates and see only the face one likes or dislikes.
(3) These four lines point to the Buddhist doctine of emptyness, which is based on the natural law of interdependence origination. All dharmas: things, living beings, processes…are created by favorable conditions coming together. These conditions continually change and deteriorate. So things are impermanent and, without a nature of their own, have no independent existence and are ultimately empty.
This practice, seeing the mind as impermanent, as an endless series of feelings and sentiations one after another, and seeing all things being interdependent, will lead to the ultimate awareness that there is no self, no permanent identily, only emptiness or buddha nature common to all.
===============================
Cư Trần Lạc Đạo
Trần Nhân Tông*

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
*Tên Trần Khâm (1258 - 1308)

居塵樂道
陳仁宗

居塵樂道且隨緣
饑則飧兮困則眠
家中有宝休尋覓
對鏡無心莫問禪

Dịch nghĩa: Sống Đời Vui Đạo

Sống giữa trên đời, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn sẳn đầy châu báu, không phải tìm đâu khác
Trước cảnh giới mà không để tâm, thì cần chi hỏi về thiền.

Dịch thơ: Sống Đời Vui Đạo

Sống đời vui đạo hãy tùy duyên
Khát uống đói ăn mệt ngủ liền
Châu báu đầy nhà không cần kiếm
Yên tâm trước cảnh hỏi chi thiền.


Live in the World and Practice with Joy
Living in the world and practicing the Path with joy, accord with conditions
Eat when hungry, sleep when tired
You already possess precious jewels, you do not have to look for it elsewhere
Facing the world with a mind that is empty, what use is meditation?
===============================
Nhập Tục Luyến Thanh Sơn
Pháp Loa Thiền Sư

Sơ cấu cùng thu thủy
Sàm nham lạc chiếu trung
Ngang đầu khan bất tận
Lai lộ hựu trùng trùng
*(1284 - 1330)

入俗戀青山
法螺禪師
疏瘦窮秋水
巉礹落照中
昂頭看不盡
來路又重重

Dịch nghĩa: Vào Cõi Tục Nhớ Núi Xanh

Đá khô cằn in bóng xuống đáy nước mùa thu
Núi hiểm hóc bơ vơ dưới ánh sáng mặt trời
Ngẩng đầu lên nhìn bất tận
Con đường đi tới lại càng xa vời vợi.

Dịch thơ: Vào Cõi Tục Nhớ Núi Xanh

Nước thu in hình đá
Núi bỏng dưới ác tà
Ngẩng đầu nhìn vô tận
Con đường vời vợi xa.


Entering the World Longing for Green Mountain
The bare rocks mirror in the autumn water
The broken peaks bake in the sunlight
Looking up, there is nothing to stop the view
And the road ahead appears endless.
===============================
Diên Hựu Tự
Huyền Quang Thiền Sư

Thượng phương thu dạ nhất chung lan
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan
Si vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
*(1254 - 1334)

延祐寺
玄光禪師

上方秋夜一鐘闌
月色如波楓樹丹
鴟吻倒眠方鏡冷
塔光雙峙玉尖寒
萬緣不擾城遮俗
半點無憂眼放寬
參透是非平等相
魔宮佛國好生觀

Dịch nghĩa: Chùa Diên Hựu (1)

Đêm thu, tiếng chuông văng vẳng từ phương trên chùa
Ánh trăng như sóng bao quanh cây phong lá đỏ
Cú mèo (2) nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá
Hai ngọn tháp sáng song song trơ trọi như hai ngón tay ngọc lạnh buốt
Muôn vạn nhân duyên không quấy rối là bức thành che chở thế tục
Không lo lắng dù nửa điểm nhỏ nên tầm mắt mở rộng
Hiểu thấu tướng bình đẳng của vạn pháp thì phải trái đều như nhau (3)
Thì xem cung ma cũng giống như đất Phật.

Dịch thơ: Chùa Diên Hựu

Đêm thu văng vẳng chuông chùa
Sóng trăng phong đỏ phân bua nỗi niềm
Cú rồng đáy nước ngủ im
Tháp song song lạnh trơ tìm tâm cang
Muôn duyên che chở thế gian
Không phiền chuyện nhỏ tâm an rộng nhìn
Bình đẳng vạn pháp trọng khinh
Cung ma đất Phật bóng hình như nhau
.

Dien Huu Pagoda (1)

In the autumn night, the temple bell is calling
The moonlight comes down like waves covering the red maple leaves
The owl (2) is sound asleep upside down in the chilly pond water, which looks like a square mirror
The two bright towers stand parallel unadorned like two icy jade fingers
Thousands of unentangled causes and conditions protect the desire world
Having no worries about minor points , one’s vision is widened
Understanding the equality of all dharmas, there is no right and wrong (3)
The ghost palace is the same as the Buddha land.

(1) Chùa Diên Hựu là Chùa Một Cột, được vua Lý Thái Tông cho dựng năm Kỷ Dậu (1049), nay vẫn còn ở Hà Nội sau nhiều lần trùng tu.
(2) “Si vẫn” là hình những con chim cú hoặc rồng được khắc hoặc đắp nổi lên cột kèo các đình chùa.
(3) Bình đẳng tướng - Tất cả pháp tướng: đời/đạo, vọng/chân, có/không, sanh/diệt, tội/phước, thiện/ác, chánh/tà, ma/Phật, … đều phát sanh từ Chân Như, là biểu hiện của Chân Như, nên được coi là bình đẳng như hai mặt của một đồng tiền.
===============================
Tặng An Lãng Tự Phổ Minh Thiền Sư
Trần Thì Kiến

Ẩn bất lâm tuyền chân đại ẩn
Tu ư gia tự tức chân tu
Thử nhật tham thiền như mộng giác
Hưu tương vãng sự quái Trào Chu.

贈安朗寺普明禪師
陳時見

隱不林泉真大隱
修於家寺即真修
此日參禪如夢覺
休將往事怪潮州

Dịch nghĩa: Đề Tặng Thiền Sư Phổ Minh Chùa An Lãng

Ẩn cư mà không ở nơi rừng sâu suối nguồn mới là ẩn thân
Tu hành ngay tại chùa trong nhà mới là chân tu
Hôm nay được tham vấn Thiền như vừa tỉnh mộng
Không đem chuyện cũ mà trách Thứ sử Triều Châu. (1)

Dịch thơ: Đề Tặng Thiền Sư Phổ Minh Chùa An Lãng

Không ở suối rừng tức ẩn thân
Tại gia hành đạo mới tu chân
Tham thiền thức tỉnh hôm nay ngộ
Thứ sử Triều Châu nhận Phật ân.


Dedicated To Chan Master Pho Minh of An Lang Temple
To seek refuge not in deep forest and source stream is a Great Refuge
To practice the Path in the home temple is the True Practice
Awaken from deep samadhi today is like wake up from a dream
Do not use an old story blaming the prefect of Trieu Chau.(1)

(1) Hàn Dũ, thi sỉ đời Đường, vì can vua Đuờng Hiến Tông trong việc cung nghênh xá lợi Phật thoát bị tử hình, nhưng bị giáng chức làm Thứ Sử Triều Châu (Trào Chu) tỉnh Quảng Đông. Khi về già, Hàn Dũ trở về đạo Phật.
===============================
Dục Thúy Sơn
Trương Hán Siêu

Sơn sắc thượng y y
Du nhân bất hồ quy?
Trung lưu quang tháp ảnh
Thượng giới khải nham phi
Phù thế như kim biệt
Nhàn danh ngộ tạc phi
Ngũ Hồ thiên địa khoát
Hảo phóng cựu ngư ky.

浴翠山
張漢超

山色尚依依
遊人胡不歸
中流光塔影
上界塏岩扉
浮世如今別
閒名悟昨非
五湖天地闊
好訪舊漁磯

Dịch nghĩa: Núi Dục Thúy

Màu núi gần y như cũ không thay đổi
Người đi chơi sao chưa thấy về?
Giửa dòng ánh sáng có bóng của tháp
Người trên mở cổng đá nham
Thế gian chìm nỗi khác biệt như ngày nay
Mới biết cái danh nhàn chẳng có gì hay ho
Vùng Ngũ Hồ trời đất rộng bao la
Tìm tảng đá cũ ngồi câu cá.
Dịch thơ: Núi Dục Thúy
Màu núi y như chẳng đổi thay
Người đi cớ sự chưa về đây
Giữa dòng ánh sáng lung linh tháp
Cổng đá trời cao đã mở bày.
Trần thế nổi trôi nay khác biệt
Danh hờ biết rõ không gì hay
Bao la trời đất Ngũ Hồ rộng
Tảng đá ngồi câu khó được ngay.

Duc Thuy Mountain

The color of the mountain appears unchanged
Why has the traveller not returned?
A tower stands in the stream of light
Haven has opened the stone gate
The saha world has changed so much to the presen
The idle fame has no meaning
The Five Lakes area is open huge space
Find the old stone above the water to sit and fish.
===============================
Đề Gia Lâm Tự
Trần Quang Triều

Tâm khôi oa giác mộng
Bộ lý đáo Thiền đường
Xuân vãn hoa dung bạc
Lâm u thiền vận trường
Vũ thu thiên nhất bích
Trì tịnh nguyệt phân lương
Khách khứ tăng vô ngữ
Tùng hoa mãn địa hương.

題嘉林寺
陳光朝

心灰蝸角夢
步履到禪堂
春晚花容薄
林幽蟬韻長
雨收天一碧
池凈月分涼
客去僧無語
松花滿地香

Dịch nghĩa: Viết Ở Chùa Gia Lâm

Lòng nguội lạnh với giấc mơ danh lợi nhỏ bé
Đi tản bộ đến thiền đường
Cuối xuân, dáng hoa mỏng mảnh
Rừng âm u, tiếng ve sầu dai dẳng
Mưa tạnh, trời một màu xanh biếc
Ao trong, trăng lạnh lẽo bị chia đôi
Khách ra về, sư chẳng nói tiếng nào
Đất thơm ngào ngạt mùi hoa tùng.

Dịch thơ: Viết Ở Chùa Gia Lâm

Đã nguội, lòng lợi danh
Rão bước đến thiền thành
Xuân tàn, hoa mong mảnh
Ve sầu thấu rừng xanh
Mưa tạnh, trời biên biếc
Ao trong, trăng hanh hanh
Khách về, sư chẳng nói
Đất ngát hương thông lành.


Written at Gia Lam Temple
My heart was cold to the small dream of fame
I walked to the meditation hall
Late spring, flowers were fragile
The forest was dark and deep, the cicada chant tedious
The pond was clear and the cold moon split into two
The rain stopped and the sky was one deep blue
The visitor left and the monk had no words
The ground was saturated with pine flower flagrance.
===============================
Túc Hoa Âm Tự
Nguyễn Trung Ngạn

Ngẫu bạng chiêu đề túc,
Tăng lưu bán tháp phân.
Thạch tuyền triêu cấp thủy,
Chỉ trướng dạ miên vân.
Tùng tử lâm song trụy,
Viên thanh cách ngạn văn.
Chúc ngư sao mộng tỉnh,
Hoa vũ lạc tân phân.

宿花陰寺
阮忠彥

偶徬招提宿
僧留半榻分
石泉朝汲水
紙帳夜眠雲
松子臨窗墜
猿聲隔岸聞
粥魚敲夢醒
花雨落繽紛

Dịch nghĩa: Nghỉ Đêm Ở Chùa Hoa Âm

Ngẫu nhiên ngủ đêm trong ngôi chùa
Sư giữ lại và nhường cho nửa giường
Sáng sớm đi lấy nước ở suối đá
Ban đêm ngủ với mây trong trướng (màn) giấy
Quả thông rơi bên ngoài cửa sổ
Tiếng vượn kêu từ bờ bên kia
Tiếng mõ như rụt rè làm tỉnh mộng
Mưa như hoa rơi rực rỡ tưng bừng.


Dịch thơ: Nghỉ Đêm Ở Chùa Hoa Âm

Ngẫu nhiên ngủ lại chùa Hoa Âm
Sư cụ nhường cho nữa chỗ nằm
Mai sớm, nước đem từ suối đá
Mây đêm, trướng giấy ẩn mùi trầm
Trái thông rụng rớt ngoài song cửa
Vượn hú từng hồi thấu cõi âm
Tiếng mõ canh khuya làm tỉnh mộng
Mưa rơi rực rỡ tợ hoa tâm.


Spending the Night at Hoa Am Temple
Unexpectedly, I spent the night at a temple
The monk offered and shared half of his bed
In the morning I carried water from the rock stream
At night I slept in the cloud behind paper scrolls
Pine cones fell by the window
Gibbons called from the other side of the stream
The sound of the wooden fish woke me from my dream
The rain like flowers fell noisily and colorfully.
===============================
Sơn Trung Khiển Hứng
Trần Nguyên Đán

Thập niên chính tỉnh phụ thu đăng
Tùng hạ hành ngâm ỷ sấu đằng
Tùy mã vọng trần vô tục khách
Khấu môn vấn tự hữu thi tăng
Thoái nhàn Lục Dã tri hà cập?
Tán cấp Thanh miêu tạ bất năng
Toạ đãi công thành danh toại hậu
Nhất khâu lão cốt dĩ lăng tằng.

山中遣興
陳元旦

十年政省負秋燈
松下行吟倚瘦藤
隨馬望塵無俗客
叩門問字有詩僧
退閒綠野知何及
散給青苗謝不能
坐待功成名遂後
一丘老骨已崚嶒

Dịch nghĩa: Trong Núi Cảm Hứng

Mười năm lo chính sự, quên chăm xóc cây đèn mùa thu (tuổi già)
Dưới rạng thông, chống gậy khẳng khiêu vừa đi vừa ngâm thơ
Không có khách thăm thì theo sau ngựa xem bụi trần
Có vị sư biết thơ thì gõ cửa hỏi chữ
Lui về Lục Dã sống an nhàn chớ biết làm sao theo kịp
Xin từ chẳng tiền theo phép Thanh Miêu (không muốn vào quan trường).
Ngồi đợi sau này công thành danh toại, công danh thành tựu thỏa thích
Thì nắm xương già đã thành mồ cao chót vót.


Dịch thơ: Trong Núi Cảm Hứng

Việc nước mười năm bỏ việc nhà
Dưới thông chống gậy vịnh ngân nga
Khách thưa theo ngựa ngắm nhìn bụi
Gõ cửa hỏi thơ sư cụ già
Lục Dã thanh nhàn sao sánh kịp
Xin từ chẳng nhận chút gần xa
Ngồi đợi công thành danh toại đến
Nắm xương tàn tạ đã ra ma
.

Inspiration in the Mountain

I spent ten years in government affairs and neglected my old age
Under the pine trees, I leaned on a slender stick to walk and recite poetry
No guest, I followed the horse and watched dust settle
If there is an educated monk, I knocked at his door and asked about literature
Back to Luc Da to live leisurely, how could I catch up?
I declined the money share as allowed by the administrative rule
Sitting back to wait for later success and fulfillment
My old bones would have been a tall heap of dust.


Phí Minh Tâm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét