Đêm Trung Thu, người người bày trà bánh thưởng thức ánh trăng trong
sáng và đẹp nhất trong năm. Nhưng đâu phải tất cả đều mang tâm trạng hồ
hởi thưởng trăng. Mang mặc cảm kẻ sa cơ thất thế, đã qua rồi những mùa
trăng huy hoàng, không còn được trọng dụng, không còn được ân sủng, nhìn
trăng càng thêm đau xót.
...Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ-vũ
Gác thừa-lương thức ngủ thu-phong,
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng
Gương loan bẻ nửa, giải đồng xẻ đôi,...
(Cung Oán ngâm Khúc )
Còn lòng dạ nào vui trăng trong lòng người chinh phụ. Còn cái vui nào cho kẻ chinh phu
... Chàng từ đi vào nơi gió cát
Đêm trăng này nghĩ mát phương nao...
(Chinh Phụ Ngâm)
Trung Thu Nguyệt chính là tiếng lòng của Bạch Cư Dị trong thời gian tham chính.
Trung Thu Nguyệt - Bạch Cư Dị
中秋月
萬里清光不可思
添愁益恨繞天涯。
誰人隴外久徵戍
何處庭前新別離。
失寵故姬歸院夜
沒蕃老將上樓時。
照他幾許人腸斷
玉兔銀蟾遠不知。
白居易
Trung Thu Nguyệt
Vạn lý thanh quang bất khả ty (tư)
Thiên sầu ích hận nhiễu thiên nhai.
Thuỳ nhân lũng ngoại cửu chinh thú
Hà xứ đình tiền tân biệt ly.
Thất sủng cố cơ quy viện dạ
Một phiên lão tướng thướng lâu thì.
Chiếu tha kỉ hứa nhân trường đoạn
Ngọc thố ngân thiềm viễn bất tri.
Bạch Cư Dị
Dịch Nghĩa: Trăng Trung Thu
Từ muôn dậm, ánh trăng thật trong không thể trong hơn nữa
Ngàn nỗi hận sầu bao lấy cả một góc trời
Vùng đất ngoài xa bao người đi lính đã lâu
Trước sân từ phương nào có cuộc chia tay mới
Đêm nay, người cung phi già không còn được ân sủng quay về cung điện
Cũng vào lúc này viên tướng già không còn được trọng dụng lên lầu
Ánh trăng chiếu rọi, khiến lòng họ đau như đứt từng đoạn ruột.
Thỏ ngọc và Cóc bạc trên cung trăng xa xôi làm sao biết được
Dịch Thơ:
Muôn dậm ánh trăng soi sáng rực
Ngàn sầu chồng chất góc trời đông
Ngoài biên bao kẻ còn lưu trấn
Sân trước nơi nao lại tiễn chồng
Phai sắc cung phi hờn điện vắng
Mòn hơi lão tướng chán lầu không
Nhìn trăng đẹp sáng thêm đau thắt
Cóc thỏ trên trăng khó hiểu lòng
Quên Đi
...Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ-vũ
Gác thừa-lương thức ngủ thu-phong,
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng
Gương loan bẻ nửa, giải đồng xẻ đôi,...
(Cung Oán ngâm Khúc )
Còn lòng dạ nào vui trăng trong lòng người chinh phụ. Còn cái vui nào cho kẻ chinh phu
... Chàng từ đi vào nơi gió cát
Đêm trăng này nghĩ mát phương nao...
(Chinh Phụ Ngâm)
Trung Thu Nguyệt chính là tiếng lòng của Bạch Cư Dị trong thời gian tham chính.
Trung Thu Nguyệt - Bạch Cư Dị
中秋月
萬里清光不可思
添愁益恨繞天涯。
誰人隴外久徵戍
何處庭前新別離。
失寵故姬歸院夜
沒蕃老將上樓時。
照他幾許人腸斷
玉兔銀蟾遠不知。
白居易
Trung Thu Nguyệt
Vạn lý thanh quang bất khả ty (tư)
Thiên sầu ích hận nhiễu thiên nhai.
Thuỳ nhân lũng ngoại cửu chinh thú
Hà xứ đình tiền tân biệt ly.
Thất sủng cố cơ quy viện dạ
Một phiên lão tướng thướng lâu thì.
Chiếu tha kỉ hứa nhân trường đoạn
Ngọc thố ngân thiềm viễn bất tri.
Bạch Cư Dị
Dịch Nghĩa: Trăng Trung Thu
Từ muôn dậm, ánh trăng thật trong không thể trong hơn nữa
Ngàn nỗi hận sầu bao lấy cả một góc trời
Vùng đất ngoài xa bao người đi lính đã lâu
Trước sân từ phương nào có cuộc chia tay mới
Đêm nay, người cung phi già không còn được ân sủng quay về cung điện
Cũng vào lúc này viên tướng già không còn được trọng dụng lên lầu
Ánh trăng chiếu rọi, khiến lòng họ đau như đứt từng đoạn ruột.
Thỏ ngọc và Cóc bạc trên cung trăng xa xôi làm sao biết được
Dịch Thơ:
Muôn dậm ánh trăng soi sáng rực
Ngàn sầu chồng chất góc trời đông
Ngoài biên bao kẻ còn lưu trấn
Sân trước nơi nao lại tiễn chồng
Phai sắc cung phi hờn điện vắng
Mòn hơi lão tướng chán lầu không
Nhìn trăng đẹp sáng thêm đau thắt
Cóc thỏ trên trăng khó hiểu lòng
Quên Đi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét