“Knowing is not enough, we must apply.
Willing is not enough, we must do.”
(Biết thôi chưa đủ, ta phải áp dụng.
Quyết tâm thôi chưa đủ, ta phải làm)
(J. W. von Goethe)
Chiếc điện thoại di động iPhone Apple, Galaxy
Samsung hay Xiaomi bình dân hơn của Trung Quốc đang thống trị lĩnh
vực truyền thông thế giới. Thuật ngữ ''điện thoại di động" được gán
cho công cụ điện tử này có lẽ không còn đúng nữa vì nó còn nhiều
chức năng khác như chụp ảnh, định vị GPS, điện thư, đọc báo, nhắn
tin, quay phim, la bàn, calculator, chơi game, nghe nhạc, dự báo
thời tiết v.v… Nó cũng đang trở thành một vật trang sức của giới trẻ
sành điệu ai mà không sở hữu thì dễ bị người xem như là dân miệt
vườn. Nó là một phát minh tổng hợp của nhiều công cụ cổ điển được
làm nhỏ hơn mà ta chỉ cần làm vài tác động "chấm chấm quẹt quẹt"
trên cái màn hình nho nhỏ là tìm được những chức năng mới lạ. Đúng
là một sản phẩm công nghệ cao vừa hấp dẫn vừa tiện lợi nhưng ít
người tiêu dùng hiểu đây là kết quả của những lý thuyết khoa học
trừu tượng như cơ học lượng tử được thành hình cách đây hơn 100 năm
hay phương trình sóng điện từ của James Maxwell ở thế kỷ 19.
Cơ học lượng tử khởi đầu chỉ là sân chơi của các
nhà toán học đượm màu triết gia hay lý thuyết gia vật lý có nhiều
hứng thú với việc "đi đứng" của các loại hạt cực nhỏ. Từ khái niệm
bó năng lượng (lượng tử) của Planck đến tính nhị nguyên sóng và hạt,
nguyên lý bất định Heisenberg, phương trình sóng Schrödinger rồi đến
chuyện con mèo Schrödinger, vướng víu lượng tử (quantum
entanglement), viễn tải lượng tử (quantum teleportation), cơ học
lượng tử cho thấy đặc tính kỳ bí của thế giới vi hạt tưởng chừng như
không liên quan đến cuộc sống thường nhật trong một môi trường vĩ mô
trông thấy được bằng con mắt phàm phu. Cơ học lượng tử cho con người
thấy một thế giới khác không tồn tại trong ý thức con người. Cho nên
nó trở nên kỳ bí. Sự kỳ bí này đã khiến cho Eisntein nghi ngờ và làm
Richard Feynman phải thốt lên "Nếu bạn bảo rằng bạn đã hiểu cơ học
lượng tử thì bạn chưa hiểu gì về nó cả!". Hơn 100 năm qua kể từ bó
năng lượng của Planck, những khái niệm kỳ bí của lượng tử được giải
mã bằng thực nghiệm và nhanh chóng đưa vào các ứng dụng cũng không
kém ly kỳ như tia laser hay vi mạch chứa vài trăm triệu transistor
có kích cỡ nanomét trong chiếc điện thoại di động, máy tính và những
công cụ điện tử, quang điện tử càng lúc càng được thu nhỏ và đa năng.
Ngày nay, con người được "tắm" trong sóng điện từ.
Không gian sinh hoạt của chúng ta tràn ngập sóng radio cho việc
truyền thanh, truyền hình, sóng radar, vi ba, sóng điện thoại và ánh
sáng, tia hồng ngoại, tử ngoại từ mặt trời. Nếu không có phương
trình sóng Maxwell có lẽ sẽ không có tia X, hồng ngoại y học, thiên
văn học hiện đại và cũng sẽ không có những công cụ viễn thông từ
những đài thu phát sóng khổng lồ, những tháp ăng-ten cao ngất ngưởng
đến chiếc điện thoại di động nhỏ bé. Nó đã tạo một cuộc cách mạng
trong các phương thức liên thông giữa con người và đồng loại mà còn
nối kết con người với vũ trụ bao la. Nhưng dự đoán vĩ đại của
Maxwell đối với cuộc sống bình lặng của thế kỷ 19 chỉ được bàng dân
thiên hạ đón nhận một cách thờ ơ nếu không có thí nghiệm của
Heinrich Hertz, một nhà thực nghiệm vật lý người Đức. Hertz tìm ra
sóng radio bằng dụng cụ thí nghiệm đơn giản phát sóng đầu này bắt
sóng đầu kia. Ông đo đạc vận tốc của sóng radio và cho câu trả lời
gần con số 300.000 km/giây như dự đoán của Maxwell. Thí nghiệm Hertz
mở ra thời đại vô tuyến mà chiếc điện thoại và đài radio là hai công
cụ đầu tiên loài người hoan hỉ tiếp nhận.
Cơ học lượng tử và phương trình sóng Maxwell không
đứng lại ở chiếc điện thoại cầm tay xinh xắn. Giải Nobel Vật Lý 2012
được trao cho Serge Haroche và David J. Wineland, cho công trình
nghiên cứu liên quan đến việc quan sát và chế ngự một vài vi hạt hay
nguyên tử để mở đường cho vi tính lượng tử với vận tốc xử lý siêu
việt. Mặt khác, phương trình Maxwell là nền tảng lý thuyết cho việc
chế tạo siêu vật liệu (metamaterials), được xem là một cột mốc quan
trọng trong vật lý hiện đại, với khả năng làm vật tàng hình, chế tạo
ăng ten cực mạnh thu nhỏ, công cụ hấp thụ nhiệt, vi ba, sóng
terahertz, hay vật liệu có chiết suất âm hay chiết suất cực to với
nhiều tiềm năng áp dụng trong quang học.
Cũng như cơ học lượng tử và phương trình sóng
Maxwell những ứng dụng của nhiều lý thuyết khoa học khác cũng lặng
lẽ đi vào cuộc sống đời thường dần dần thay đổi bộ mặt của xã hội
loài người. Chỉ một đơn cử về chiếc điện thoại di động, người ta
nhận ngay sự đóng góp to lớn của khoa học. Nhưng biến khoa học thành
công nghệ không phải là một quá trình tự phát chờ sung rụng mà là
kết quả của sự quản lý khoa học chặt chẽ trong một chiến lược triển
khai và nghiên cứu có tầm nhìn xa rộng để làm giàu đất nước. Trật tự
phong kiến "sĩ, nông, công, thương" trong xã hội phương Đông có thể
là cái rào cản ngoan cố hay là chất xúc tác mạnh mẽ cho cuộc cách
mạng khoa học công nghệ. Điều này tùy vào sự nhạy cảm trước thời thế,
phương pháp bồi dưỡng nhân tài và chính sách phát triển khoa học của
một chính phủ.
Thăng trầm của tôn ti "sĩ, nông, công, thương"
"Sĩ, nông, công, thương" là một phản ánh thực tế
trong xã hội của tư tưởng Nho giáo. "Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt. Dân
hữu tứ sĩ vi chi tiên" … Uy viễn Tướng công đã khẳng định như đinh
đóng cột rằng sĩ là một giai cấp tiên phong cự phách của xã hội
phong kiến và phải có nhiều trọng trách hơn các giai cấp khác. Thỉnh
thoảng khi thiên không thời, địa không lợi khiến cho mùa màng thất
bát thì "nông" tạm thời trở thành "nhất nông nhì sĩ". Trong tư duy
Nho giáo, kẻ sĩ chỉ loanh quanh ở cái việc trả nợ "tang bồng hồ thỉ"
cho nên khi phải đối đấu với nền văn minh cơ khí phương Tây thì kẻ
sĩ trở nên lúng túng, loay hoay không đối sách. "Công, thương" dù
trong hoàn cảnh nào cũng ở hàng thứ chót.
Tư tưởng "phi thương bất phú" vì vậy thoạt nghe
thì phảng phất mùi tiền con buôn.
Nhưng ở thời hiện đại làm "thương"
trên cơ sở biến lý thuyết khoa học thành sản phẩm thương trường quả
thật không đơn giản. Khoa học xuất phát từ tính hiếu kỳ của con
người, nhưng công nghệ lại đi từ nhu cầu của con người. Công nghệ có
thể xem như giai đoạn cuối của quá trình nghiên cứu khoa học, măc dù
không phải phát hiện khoa học nào cũng có thể trở thành thương phẩm.
Từ tiếng kêu khoái trá "Eureka!" (tìm ra rồi) trong phòng thí nghiệm
đến sản phẩm trên thương trường không phải là con đường đầy hoa thơm
cỏ lạ mà là con đường dài gian truân thậm chí chỉ là lối mòn vào ngõ
cụt. Theo thống kê, trong 5000 đề tài khoa học sẽ có 1000 đề tài khả
thi trên phương diện thực nghiệm. Trong 1000 đề tài nầy sẽ đưa đến
100 đề tài có khả năng ứng dụng. Và trong 100 đề tài này nhiều nhất
chỉ có 5 đề tài đưa đến thành phẩm. Như vậy, xác suất thành công sẽ
ít hơn 0,1 %. Hơn nữa, thành phẩm có làm thay đổi sinh hoạt con
người, được khách hàng yêu thích và được những nhà đầu tư ưa chuộng
hay chăng lại là những yêu cầu khác. Từ những tiêu chí này thí dụ về
chiếc điện thoại di động cho thấy sự thành công mỹ mãn của việc kết
hợp khoa học vào công nghệ kéo dài từ phòng nghiên cứu đến sàn chứng
khoán. Và cũng từ những tiêu chí này, những nhân vật như Steve Jobs
hay Bill Gates biết dùng tri thức của "sĩ" và kỹ thuật của "công" để
biến chúng thành sản phẩm "thương", vừa quản lý sản xuất vừa khai
thác tâm lý khách hàng và cải tạo bộ mặt xã hội loài người quả là
bậc kỳ tài hiếm hoi trong thiên hạ!
Nền tảng nội lực của một quốc gia là khoa học công
nghệ. Công nghiệp hóa một quốc gia không phải chỉ dựa dẫm vào việc
đầu tư của nước ngoài mà còn là sự tập trung vào việc phát huy tính
ứng dụng cuả khoa học, quản lý nghiên cứu khoa học và tạo môi trường
kích thích sự sáng tạo và năng động của những nhà nghiên cứu. Việc
phát triển công nghệ của một quốc gia đi sau để bắt kịp các nước
tiên tiên tiến, dù là dân dụng hay quốc phòng, thường đi qua ba
phương cách là "mua, tự chế và… ăn cắp". Hai phương pháp đầu rất tốn
kém nhưng phương pháp thứ ba rẻ tiền và nhanh chóng dù là việc thập
thò phi pháp! Những kỹ xảo công nghệ từ việc bình thường như các
phương pháp thực nghiệm trong phòng nghiên cứu đến quá trình phức
tạp chế tạo sản phẩm bán ra tiền ít được hé lộ trên các bài báo cáo
khoa học và nếu có công khai thì chỉ nói một cách bao quát chung
chung với vài thí dụ thực nghiệm nhằm đánh lạc hướng người đọc trên
các đăng ký phát minh. Cho đến ngày hôm nay công thức chế tạo
Coca-Cola hay các hương vị trong món gà nướng Kentucky vẫn là những
thông tin thương mãi cực mật.
Khi có người rắp tâm cất giấu thì cũng sẽ có người
quyết tâm tìm kiếm. Những James Bond với biệt tài đạo chích khi thì
có dung mạo điển trai lịch lãm khi thì có dáng dấp thật thà như anh
gù nhà thờ Notre Dame có thể xuất hiện ở bất cứ ngõ ngách nào trên
thế giới và bất cứ thời gian nào trong lịch sử. Chưa kể đến những kẻ
không mặt mũi có đôi tay dài liên lục địa mò mẫm vào những nơi cực
mật của thế giới cyber hay những điệp vụ "mỹ nhân kế" từ cổ chí kim
đã làm gục ngã bao anh hùng từng bách chiến bách thắng chốn sa
trường. Truyền thuyết "Trọng Thủy - Mỵ Châu" và cái nỏ thần An Dương
Vương có thể xem là vụ "chôm" công nghệ quốc phòng nổi tiếng trong
lịch sử Việt Nam. Nhưng dù trong tình huống nào của "mua, tự chế và
ăn cắp" nó đều đòi hỏi một trình độ hiểu biết cao cấp về khoa học
công nghệ. Năm xưa, Anh và Pháp chế tạo máy bay Concord, thì Liên Xô
(cũ) cũng nhanh chóng trình làng chiếc Tupolev Tu-144. Nhật Bản có
xe lửa siêu tốc Shinkansen thì bây giờ Trung Quốc cũng sản xuất xe
lửa tương tự mang tên "Hòa Giải".
Đầu óc thực tiễn của các doanh nhân Nhật Bản với
chủ trương áp dụng khoa học vào việc chế tạo và bán sản phẩm lấy
ngoại tệ để phục hồi kinh tế sau đệ nhị thế chiến là việc chính danh
hơn thập thò "ăn cắp" và cũng là tấm gương xán lạn cho các quốc gia
đang phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore. Morita Akio là
một thí dụ điển hình biết ứng dụng khoa học tiên tiến phương Tây vào
việc chế tạo sản phẩm công nghiệp. Ông từ bỏ chức vụ giảng viên tại
trường Đại học Công nghiệp Tokyo (Tokyo Institute of Technology)
danh giá để xông pha vào thương trường lập ra hãng Sony. Là một
ngưòi tốt nghiệp ngành vật lý, ông nhận thấy sự ứng dụng to lớn và
kỳ diệu của transistor. Trong khi ba người phát minh là John Bardeen,
William Shockley and Walter Brattain (giải Nobel Vật Lý 1956) vẫn
chưa thấy được tầm ứng dụng của transistor của mình thì Morita sang
Mỹ mua bản quyền để làm radio transistor bán ra toàn thế giới.
Morita đã mở ra nền công nghiệp điện tử thu nhỏ biến chiếc radio
diode cồng kềnh cổ lỗ thành radio transistor bỏ túi thời thượng.
Những trí thức với đầu óc thực dụng và ham học hỏi
như Morita Akio kế tục con đường khai sáng của kẻ sĩ Nhật Bản thời
Minh Trị Duy Tân đã mang ảnh hưởng sâu sắc đến hai nước láng giềng
Hàn Quốc và Đài Loan còn nặng lòng với Nho học. Trong khi giai cấp
sĩ tại đại lục Trung Quốc bị hạ phóng làm nông ở những vùng quê heo
hút trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa thì "sĩ" đã trở thành "công,
thương" tại Đài Loan và Hàn Quốc và biến hai nước này thành những
con rồng châu Á. Đài Loan trong thập niên 70 của thế kỷ trước dưới
sự lãnh đạo của Tưởng Kinh Quốc kêu gọi các khoa học gia người Hoa
thành đạt ở nước ngoài trở về nước tham gia vào sự nghiệp công
nghiệp hóa Đài Loan mà mũi nhọn là công nghiệp điện tử. Khu khoa học
và công nghệ Hsinchu (Tân Trúc) được thành lập năm 1980 tại một địa
điểm kề cận hai đại học hàng đầu của Đài Loan là đại học Quốc gia
Thanh Hoa và đại học Quốc gia Giao Thông. Sự hợp tác giữa khu công
nghệ và đại học tại Đài Loan chẳng qua là mô phỏng sự liên thông
giữa đại học và các chương trình nghiên cứu và triển khai của các
công ty tại Mỹ mà điển hình là đại học Stanford và Thung lũng
Silicon tại California. Những sản phẩm công nghệ cao như vi mạch,
linh kiện và công cụ điện tử của Đài Loan đã biến quốc đảo nhỏ bé
này thành nơi dự trữ ngoại tệ đứng thứ hai trên thế giới trong hai
thập niên 70, 80 của thế kỷ trước.
Cũng vào thập niên 70, tổng thống Hàn Quốc Park
Chung-hee đưa ra lộ trình phát triển công nghiệp chế tạo hàng hóa
xuất khẩu đồng thời chú trọng vào khoa học công nghệ. Chính phủ Park
Chung-hee theo mô hình các công ty Nhật Bản như Hitachi, Mitsubishi,
Toyota, đặt nền móng cho các tập đoàn đa công nghiệp Hàn Quốc chế
tạo từ những vật nhỏ nhất như linh kiện điện tử đến việc to tát,
nặng nề nhất như công nghiệp đóng tàu. Vào năm 1971 chính phủ Park
Chung-hee thành lập Korea Advanced Institute of Science and
Technology (KAIST, Hàn Quốc Khoa học Kỹ thuật Viện), đầu tàu của nền
khoa học kỹ thuật Hàn Quốc với mục đích đào tạo các nhà khoa học và
kỹ sư cho việc nghiên cứu khoa học và các tập đoàn công nghiệp như
Samsung, Hyundai. Hơn 40 năm qua, KAIST đã tạo một ảnh hưởng vô cùng
sâu rộng cho nền khoa học công nghệ Hàn Quốc và thế giới.
Những nước đi sau khi đạt đến một trình độ có khả
năng làm chủ công nghệ và bán những sản phẩm công nghệ hay chế tạo
khí tài quân sự thì việc thặng dư tài chính trong kinh thương được
tái đầu tư vào việc nghiên cứu cơ bản. Một quốc gia phát triển có
chiến lược không ngừng ở trình độ bắt chước hay sao chép công nghệ
lẽo đẽo theo sau các nước tiên tiến mà cần phải chủ động làm khoa
học, nền tảng của công nghệ. Sau 40 năm, thương hiệu của xứ sở "kim
chi" lừng danh thế giới nhưng lộ trình khoa học công nghệ của Hàn
Quốc không dừng ở chỗ chỉ chế tạo sản phẩm. Khi kho bạc nhà nước đã
đầy tiền, cơ sở hạ tầng đã vững chắc, chính phủ Hàn bắt đầu đầu tư
vào nghiên cứu cơ bản. Tháng 5, 2012 Viện Nghiên cứu Khoa học Cơ bản
Hàn Quốc (Institute for Basic Science, IBS) được thành lập với kinh
phí hằng năm là 600 triệu đô la, một phần trong kinh phí 15 tỷ đô la
mà chính phủ Hàn Quốc cung cấp hằng năm cho các dự án R&D cả nước.
Mười trung tâm IBS đầu tiên đưọc thành lập bao gồm các bộ môn cơ bản
là sinh học, hóa học, vật lý và toán. Số trung tâm sẽ tăng đến 25 (năm
2013) và 50 (năm 2017) [1]. Những trung tâm này thu hút tài năng
trên toàn thế giới để các nhân tài thi đua làm nghiên cứu cơ bản tạo
nền tảng khoa học cho các ứng dụng công nghệ tương lai, công bố
thành quả trên các tạp chí quyền uy và cuối cùng tìm kiếm vài giải
Nobel khoa học. Sự hiếu học truyền thống của "sĩ" trong Nho giáo
được tích cực triển khai và lòng tự hào dân tộc đã đưa Hàn Quốc trở
thành thương hiệu được thế giới tin dùng và giờ đây sở hữu một trung
tâm nghiên cứu khoa học có đẳng cấp quốc tế.
Trong lúc những con rồng châu Á đứng đầu là Đài
Loan và Hàn Quốc đang vẫy vùng trong ngàn mây thì đại lục Trung Quốc
còn quay cuồng lặn ngụp trong Cách mạng Văn hóa. "Sĩ" trong cuộc đấu
tranh giai cấp là tầng lớp khó dạy có mùi phân lại thêm cái tội làm
tay sai của giai cấp tư bản "thương" bốc lột. "Công nông" trở thành
giai cấp tiên phong, nhưng ở đây "nông" là bần nông không phải
chuyên gia nông nghiệp làm những việc như cải biến gene hạt giống
chống sâu rầy, "công" là công nhân nhà máy không phải kỹ sư hay
chuyên gia kỹ thuật. Giai cấp "công nông" được chính quyền cách mạng
cho phép đăng ký tự do học "đại học" để một đêm sáng ngày ù té biến
thành "sĩ". Các trường danh giá như đại học Bắc Kinh, Thanh Hoa phải
hạ trình độ giảng dạy đến bậc trung học cấp hai cấp ba. Khuôn viên
hoa lệ của đại học trở nên nơi trồng rau cải nuôi dưỡng giai cấp
tiên phong. May thay Cách mạng Văn hoá chấm dứt vào năm 1976, kẻ sĩ
hơn 10 năm bị hạ phóng làm nông nay mới được giải phóng lụt tụt khăn
gói trở về thành. Từ đó đến nay hơn 30 năm khoa học công nghệ Trung
Quốc bùng phát như lửa rừng.
Hiện nay các đại học Trung Quốc xuất bản các bài
báo cáo khoa học có số lượng tương đương với đại học Mỹ. Trong năm
2008, đại học và cơ quan nghiên cứu có hơn 6073 đăng ký phát minh
trong và ngoài nước so với 346 đăng ký năm 1999. Cơ quan đăng ký
phát minh Mỹ ghi nhận sự gia tăng đăng ký tại Mỹ các phát minh Trung
Quốc từ 41 năm 1992 đến 1874 năm 2008 [2]. Đằng sau những con số này
là những quốc sách cải cách giáo dục, khoa học công nghệ toàn diện
và quyết liệt. Năm 2008 chính phủ Trung Quốc đưa ra chương trình "Nghìn
nhân tài" chiêu mộ những cựu du học sinh Trung Quốc thành đạt ở nước
ngoài trở về với thù lao hậu hỉ. Trong công cuộc cải cách khoa học
công nghệ, đặc điểm thứ nhất là họ học tập những nước đi trước để
thiết lập một lộ trình phát triển phù hợp với hoàn cảnh Trung Quốc
[3]. Đặc điểm thứ hai là sự thành hình của liên mạng các khoa học
gia người Hoa trên toàn thế giới chủ yếu là Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan,
Hong Kong, Singapore, và hân hoan đón nhận các nhà khoa học nước
ngoài làm nghiên cứu tại Trung Quốc. Đặc điểm thứ ba là sự quyết tâm
làm chủ công nghệ qua phương thức "mua" rồi "tự chế" bằng công nghệ
ngược (reverse engineering) từ chiếc máy bay tàng hình đến những
linh kiện điện tử nhỏ bé như vi mạch chứa hàng tỷ transistor.
Cái bóng dài "hủ nho"
Đã có nhiều tiếng nói của các bậc thức giả ưu thời
mẫn thế lo lắng cho tiền đồ giáo dục Việt Nam. Những bất cập trong
giáo dục đại học khiến cho viễn ảnh khoa học công nghệ thêm phần ảm
đạm. Sự thiếu vắng một bộ óc lớn biết lãnh đạo, một chính sách, lộ
trình khoa học công nghệ năng động và sự quyết tâm thực hiện để đáp
ứng với thực tế khiến cho nền khoa học công nghệ Việt Nam như căn
nhà tranh vốn ộp ẹp lại thường xuyên dột nước… Những nghị quyết
giống nhau được sao chép từ đại hội lớn đến đại hội nhỏ lặp lại điệp
khúc cũ rích "em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé …" đã gặm nhắm lòng
người từ lâu lắm rồi. Điều lo ngại hơn là một số thuộc giai cấp "sĩ"
vốn tha hoá lại thừa nước đục thả câu bởi kế hoạch "20.000 tiến sĩ ở
năm 2020" từ chỗ hiếu học đến chỗ hiếu danh, hiếu chức. Cuối cùng để
có chức có quan có tiền bằng con đường ngắn nhất thì không có gì hơn
con đường học giả bằng thật, mua danh bán tước.
Lại có một số "sĩ " học thật nhưng có mốt suy tư
kiểu "giỏi toán là người thông minh". Nó khá phổ biến trong giới
sinh viên thậm chí trong giới học thuật Việt Nam mặc dù trên thực tế
đời thường "người thông minh chưa chắc đã giỏi toán" và trong việc
tính toán không ít người làm toán giỏi nhưng tính chuyện đời không
giỏi. Sự lệch lạc này đưa đến tình trạng là người làm lý thuyết "xem
thường" người làm thực nghiệm hay có kỹ năng tay nghề. Chuyện "xem
thường" đã có từ thời Ernest Rutherford trong câu nói "Tất cả mọi
khoa học là vật lý hay chỉ là sưu tầm tem" (All science is either
physics or stamp collecting). Câu nói làm phật lòng không ít các
đồng nghiệp hóa hay sinh học. Thậm chí ngày nay trong khoa vật lý
vẫn còn sự phân biệt của người làm lý thuyết và người làm thực
nghiệm.
Dù sao, phát ngôn của Ernest Rutherford là một bộc
phát ngẫu hứng và sự phân biệt giữa "thực nghiệm" và "lý thuyết" chỉ
là một thành kiến ấu trĩ của một thiểu số vì sự hài hòa giữa lý
thuyết và thực nghiệm, sự liên thông và bổ túc giữa các ngành khoa
học là một yếu tố then chốt của sự phát triển khoa học công nghệ.
Nhưng khi sự phân biệt này lẩn khuất trong khuôn viên đại học hay
cộng đồng khoa học Việt Nam thì nó cho thấy một thực trạng phũ phàng
là tư duy của ta phản ánh nguồn gene "sĩ" lỗi nhịp với thời đại mà
kết quả là ta có nhiều trường đại học để cấp học vị hơn là trường kỹ
thuật dạy nghề. Có phải đây là con đường nối dài của giai cấp "sĩ"
hủ nho sống trong tháp ngà mà hậu quả là con số các báo cáo công
trình trên tạp chí quốc tế và đăng ký bằng phát minh hằng năm rất
khiêm tốn? Một hệ luận hiển nhiên là ta không gầy dựng được một nền
công nghiệp dân tộc làm giàu đất nước dù hệ thống đã đào tạo ra
nhiều lý thuyết gia trong toán học, vật lý lý thuyết, cơ học tính
toán nhưng hiếm thấy những nhà công nghệ tầm cỡ như Thomas Edison,
Henry Ford hay Matsushita Konosuke (hãng Panasonic), Honda Shoichiro
(hãng Honda), Morita Akio (hãng Sony) vừa có tài năng chế tác
(manufacturing) vừa có đầu óc kinh doanh.
"Sĩ, nông, công, thương" thời hiện đại không còn
là một tôn ti trên dưới mà là biểu hiện của sự bổ túc ngang hàng cần
thiết để phát triển nội lực quốc gia. Nguyên khí một nước thường tỉ
lệ vào con số nhiều ít của các bậc thức giả hiền tài vì con người là
vốn cơ bản. Nhưng bậc hiền tài ngày nay cũng thực tế như loài chim;
đất không lành thì chim không đậu… Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore đã
cách tân quan niệm phong kiến "sĩ, nông, công, thương" thu hút nhân
tài không phân biệt quốc tịch trên toàn thế giới và quốc tế hóa khoa
học công nghệ để biến thế kỷ 21 thành thế kỷ châu Á. Người khổng lồ
Trung Quốc cũng chợt tỉnh giấc mộng "thiên đàng utopia" quay về với
hiện thực với một quyết tâm rũ bỏ một xã hội nông nghiệp tay lấm
chân bùn di sản của ngàn năm phong kiến để tạo nên một xã hội giàu
có văn minh theo con đường phát triển khoa học công nghệ. Lộ trình
phát triển của ta vẫn chưa thoát ra khỏi bóng tối của hủ nho, tư duy
của ta còn ôm chân quá khứ bám víu vào con đường khoa bảng trọng
danh hơn trọng thực. Chúng ta đang tụt hậu trầm trọng và chỉ còn một
con đường thoát duy nhất: cải cách toàn diện từ con người đến hệ
thống, nếu không muốn sống như con ếch trong cái giếng làng.
Tài liệu tham khảo:
1. "South Korea invests big in basic research",
Physics Today, October 2012, pp. 26.
2. P.G. Altbach and Q. Wang, "Can China keep
rising?", Scientific American, Oct. 2012, pp. 46.
3. "Science & Technology in China: A Roadmap to
2050", Yongxiang Lu (Editor-in-Chief), Springer Verlag, Berlin
Heidelberg, 2010.
Trương Văn Tân
Tháng 11, 2012
(Bài viết đã đăng trong quyển "Hạt Higss và Mô Hình Chuẩn", nxb Tri Thức, Hà Nội)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét