(Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng thống Trần Văn Hương)
Ông Trần Văn Hương (1902-1982), sinh ở Vĩnh Long, học trường Collège Mỹ Tho, đậu Thành Chung (Diplôme) rồi tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, về làm Giáo sư Việt Văn của trường Collège Mỹ Tho (Nguyễn Đình Chiểu).
Cuộc đời và thơ của ông Trần Văn Hương trải qua lịch sử chính trị trong Thời kỳ Kháng chiến chống Pháp, Đệ Nhất Cộng Hòa, Thời kỳ Quân Quản và Đệ Nhị Cộng Hòa.
Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Tự Trị
Tháng 3 năm 1945, sau khi đảo chánh Pháp, Nhật cho vua Bảo Đại lập chính phủ Trần Trọng Kim. Trong Nam Kỳ, vua Bảo Đại được đặt một quan Khâm Sai, là ông Nguyễn Văn Sâm, cũng như Khâm Sai Phan Kế Toại ở Bắc Kỳ.
Tuy nhiên thực quyền được Nhật giao cho Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất gồm tất cả các đảng phái và giáo phái ở Nam Kỳ, cai trị Sài Gòn và địa phương. Ngày 23-3-45, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất rút lui nhường quyền lãnh đạo cho Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ của Việt Minh (Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế) với Trần Văn Giàu (thuộc CS Đệ Tam Quốc Tế) làm Chủ Tịch.
Tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, quân Anh vào giải giới quân Nhật phía Nam vỹ tuyến 16 (từ Tourane tức là Đà Nẳng tới mũi Cà Mau) gồm Nam Trung Kỳ và Nam Kỳ. Quân Pháp theo chân quân Anh vào Sài Gòn.
Trong khi đó Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ đã bị chống đối của Cao Đài, Hòa Hảo và Đệ Tứ Quốc Tế (Trotskyist) nên phải nhượng bộ và cải tổ, Phạm Văn Bạch (cũng thuộc Đệ Tam Quốc Tế) thay Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch. Sài Gòn hoàn toàn rối loạn giữa người Pháp, người Việt và các đảng phái.
Sau một thời gian thương thuyết, quân Pháp tấn công quân Việt Nam và chiếm Tòa Thị Chính Sài Gòn là trụ sở của Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời Nam Bộ ngày 23-9-45. (Ngày 23-9 nầy sau nấy được gọi là ngày Nam Bộ Kháng Chiến). Quân Việt Nam thua, phải rút ra ngoại ô và phong tỏa Sài Gòn. Ngày 3-10-45, tướng Leclerc đem 10.000 quân đổ bộ vào Sài Gòn. Ngày 9-10, Anh và Pháp ký hiệp ước ở Luân Đôn xác định Anh hoàn toàn ủng hộ Pháp trong việc cai trị toàn Đông Dương dưới vỹ tuyến 16.
Ngày 16-10-45, quân Việt Minh rút về vùng kháng chiến.
Sau khi rút đi, Việt Minh giết 20 người nồng cốt của phe Đệ Tứ Quốc Tế (Trotskist), trong đó có ông Phan Văn Hùm. Quân đội của Cao Đài, của Hòa Hảo (gọi là Dân Xã) và của Bình Xuyên (của Tướng Bảy Viễn) không tham gia, chỉ rút về địa phận của mình.
Trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp còn có Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng của các ông Nguyễn Văn Sâm (cựu Khâm sai), Phan Khắc Sửu, Trần Văn Ân và Hồ Văn Ngà. Nó là hậu thân của Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội (của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để) ở Nam Kỳ.
Trong khoảng 1945-1947, VM dưới quyền của Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai thủ tiêu khoảng 2.500 người đối lập (theo lời của Trần Văn Giàu về sau nầy), trong đó có ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) bị giết ngày 29-9-1945, ông Hồ Văn Ngà và ông Nguyễn Văn Sâm.
Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ (1919-1947) của đạo Hòa Hảo cũng mất tích ngày 16-4-1947 trong chuyến đi hội với VM ở Tân Phú.
Ông Trần Văn Hương đi theo kháng chiến Nam Bộ ở Tây Ninh chưa được 1 năm thì bỏ về thành (1946) và mở tiệm thuốc. Ông có làm bài thơ tưởng niệm ông Nguyễn Văn Sâm.
Nguyễn Văn Sâm
Chống Thực Dân, chống độc tài!
Một thề đã quyết dám đơn sai
Khen chê trôi kệ rằng hay dở
Phải quấy cần chi luận vắn dài
Đau đớn thương dân đang vận tối
Vẻ vang mong nước có ngày mai
Ví dầu muốn biết công hay tội
Đọc sử sau nầy lựa hỏi ai?
Ấy mới gan, ấy mới tài!
Con đường định vạch mặt chông gai
Thân nầy đành đã không trăm tuổi
Hội ấy thôi thì đóng một vai
Vui với giàu sang vui cũng thẹn
Thác vì nòi giống thác bao nài
Nghìn sau sử sách ghi câu chuyện
Công của ai? mà tội của ai?
(Trần Văn Hương)
Quân Pháp lần lượt chiếm lại lãnh thổ: phía Nam Sài Gòn chiếm đến mũi Cà Mau (25-10-45 tới 5-2-46) và phía Bắc Sài Gòn tới Kon Tum và Đà Nẳng (23-10-45 tới tháng 7-46).
Về chính trị, Pháp cho lập Nam Kỳ Quốc trong Liên Bang Đông Dương với chính phủ của Thủ Tướng Bs Nguyễn Văn Thinh ra mắt ngày 26-3-46, làm bù nhìn cho Pháp, cai trị dưới vỹ tuyến 16.
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Lao Trung Lãnh Vận
Năm 1955, ông Trần Văn Hương ra làm Đô Trưởng Sài Gòn của chính phủ Ngô Đình Diệm cũng chưa được 1 năm thì từ chức. Ông cùng với 17 người khác trong nhóm xưng là Tự Do Cấp Tiến bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm bỏ tù sau vụ đảo chánh 11-11-60. Nhóm nầy từng họp ở khách sạn Caravelle tuyên bố đối lập với chính phủ Ngô Đình Diệm (1960) rồi ủng hộ (?) cuộc đảo chánh 11-11-60 (nên còn có tên là nhóm Caravelle).
Trong tù từ ngày 12-11-60 cho đến ngày 7-4-61 thì được thả, ông Trần Văn Hương có để lại những bài thơ trong tác phẩm “Lao Trung Lãnh Vận”:
(Ông Trần Văn Hương và tác phẩm Lao Trung Lãnh Vận)
- Tinh thần khi mới vào tù:
Ai bảo trong lao khổ
Trong lao sướng thấy mồ!
Bên nầy thì cụ Tổng
Phía nớ lại quan Đô
Đòi vợ, ngày: ông Cử
Làm thơ, giễu: bác Đồ
Các anh còn ở ngoải
Đợi quái gì chưa vô?
(Trần Văn Hương) 17-11-60
Chú thích:
Theo ý của bài thơ, nhóm Caravelle (18 người) của ông Trần Văn Hương có đủ các ông cựu Tổng trưởng, cựu Đô trưởng, Cử nhân và Tú tài (Đồ).
Thực ra bài thơ chỉ đúng phân nửa:
Cựu Tổng trưởng: Bs Nguyễn Tăng Nguyên, Ls Lê Ngọc Chấn
Cựu Đô trưởng: ô. Trần Văn Hương
Không có ông Cử hay ông Đồ nào hết chỉ có Tiến sĩ Hán học là ông Trần Lê Chất.
Trong nhóm 18 người có 2 kỹ sư (Phan Khắc Sửu và Lương Trọng Tường). 6 bác sĩ (Nguyễn Lưu Viên, Trần Văn Đỗ, Nguyễn Tăng Nguyên...), 3 luật sư (Trần Văn Tuyên, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật) và 1 linh mục (Hồ Văn Vui)
- Thể xác trong tù:
Suốt ngày ăn ngủ, ngủ rồi ăn
Chưa thấy chuyện gì chuyện khó khăn
Nằm khểnh sờ môi: râu tủa tủa
Ngồi rù gãi háng: dái tăn tăn (*)
Làm sang phe phẩy tay còn quạt
Đi tắm trần truồng mổng thiếu khăn (*)
Ăn, Ngủ, Ỉa xong; đầy đủ cả
Muốn chi chi nữa biết mần răng!
(Trần Văn Hương) 17-11-60
(*) Chú thích:
Ngồi rù = Ngồi co ro ủ rũ như gà bị bệnh (dịch). Mổng = Mổng đít.
Ra lịnh đòi ra chịu chụp hình
Đua nhau sắm sửa được làm xinh
Anh xoa mái tóc cho ra dáng
Cụ vuốt chòm râu để gợi tình
Sờ trán chùi da da mốc thếch
Đưa tay giũ áo áo hôi rình
Ví dầu ảnh ấy, ngày sau thấy
Chúng bảo nhau rằng “cái lũ ranh”.
(Trần Văn Hương) 22-11-60
Dị Tướng Bất Tài
Cũng dự phong lưu lúc ở ngoài
Vào đây, nhìn mãi chẳng ra ai
Mặt mày ủ rũ râu dòm miệng
Đầu cổ chôm bôm tóc liếm tay
Răng cỏ vắng chùi (chà) hôi thủm thủm
Áo quần không giặt ngửi khai khai
Chưa bao lâu, đã thay hình dạng
Dị tướng than ôi lại bất tài
(Trần Văn Hương) 1-12-60
- Từ Thể xác ảnh hưởng đến Tinh thần sau một thời gian ở tù:
Phong độ nhà lao có dễ đâu
Tập thành nề nếp lắm công phu
Nằm cao ngủ kỹ sao rằng phạm
Ở bẩn ăn dơ mới gọi tù
Nghiêng ngửa nằm khềnh xem đáng mặt…
Trần truồng đứng tắm để trơ …khu
Nhắn ai muốn học vào đây học
Phong độ nhà lao có dễ đâu.
(Trần Văn Hương) 11-12-60
Vì chưng bẻm mép mới vào đây
Câm họng đâu ra đến nỗi nầy
Dân chúng sướng; đồ: dân chúng khổ!
Nước nhà nên; bảo: nước nhà nguy!
Dở hay mặc kệ thằng cha nó!
Còn mất can chi lão nội mầy?
Nếm thử mùi tù cho đáng kiếp
Từ rày chừa bỏ tật thày lay.
(Trần Văn Hương) 21-11-60
Sự thế man man tỉnh chửa rồi
Vào đây thoát đã đủ trăng thôi
Cảnh nầy tuy đẹp bề ăn ở
Nỗi ấy không khuây lúc đứng ngồi
Vận nước những lo dâu biển đổi
Tức mình luống thẹn tháng ngày trôi
Nhắn ai ngoài ấy ta xin hỏi
Triều đã lui chưa, cát đã bồi?
(Trần Văn Hương) 12-12-60
Bài thơ "Nỗi Lòng"
Cuối năm 1961, khi được người bạn là Long Giang Đỗ Phong Thuần cho đọc 1 bài thơ (tựa là Nỗi Lòng), bảo là của Chí sĩ Ngô Đình Diệm làm khi bôn ba làm cách mạng ở hải ngoại, ông Trần Văn Hương có làm 2 bài họa:
Nỗi Lòng (Nguyên bản)
(Chí sĩ Ngô Đình Diệm) 1953
(Họa 1)
Hèn vụng toan khai núi lấp sông!
Chiêm bao sự nghiệp: có rồi không!
Tan tành lưới gió hoài tơ nhện
Diệu vợi đường mây rã cánh hồng
Mùi thế ngọt ngon ai đã chán?
Chợ đời giành giựt khách còn đông
Nhắn lời xin hỏi người cao kiến
Nào thuở Hoàng Hà thấy nước trong?
(Trần Văn Hương) 26-12-61
(Họa 2)
Tủi nhục như vầy rửa nước sông?
Cơ đồ gây dựng phút thành không!
Lòng nầy hổ gởi vầng trăng bạc
Danh ấy đành buông ngọn lửa hồng
Chí sĩ cam thân vùi tuyết Bắc (*)
Anh hùng thẹn mặt ngó người Đông (*)
Xét mình chẳng tiện theo gương trước
Sống đục còn hơn chịu thác trong!
(Trần Văn hương) 26-12-61
(*) Chú thích:
Nhắc chuyện Tô Vũ cam chịu ở vùng “tuyết phương Bắc” và Hạng Vũ thẹn không muốn qua sông gặp lại “người Giang Đông” (mặc dù ông Đình Trưởng có cấm sào đợi).
Ông Long Giang Đỗ Phong Thuần cũng có 1 bài thơ để nói ý kiến chống đối của mình (với ông Ngô Đình Diệm) thì ông Trần Văn Hương cũng phụ họa 1 bài nữa:
Phúng Thế (Xướng)
Đường đời chen lấn chợ trời đông
Chác lợi mua danh mới phập phòng
Tránh kẻ ham giàu bôi sử sách
Phụ người công khó giúp non sông
Con buôn gặp mối đeo như đỉa
Thằng mổng no cơm hót tựa nhồng
Ái quốc ưu dân là quảng cáo
Ngân hàng ngoại quốc dẫy đầy công.
(Long Giang Đỗ Phong Thuần)
Chuyện Trớ Trêu (Họa)
Trớ trêu mật ít lại ruồi đông
Thầm nghĩ cười ai mũi sớm phồng
Môi mỏng khoe lo dân với nước
Mặt dầy quên thẹn với non sông
Thấy lâu xốn mắt, lòng lang sói
Nghe lắm rườm tai, giọng cưởng nhồng
Tấp tểnh đua đòi trang “chí sĩ”
Muôn đời để mãi tiếng thằng “công” (*)
(Trần Văn Hương)
(*) Chú thích:
“Công”: từ tiếng Pháp là “Un Con” để nói người ngu dốt vô liêm sĩ. (Ông Trần Văn Hương tự chú thích).
Sau đó dù biết là bài thơ không phải của Chí sĩ Ngô Đình Diệm (mà là của ông Nghè Nguyễn Sỹ Giác), nhưng ông Trần Văn Hương không đổi ý (chống đối). Đến năm 1964, nhìn lại cuộc đảo chánh 1-11-63, ông thú thật là ông giựt mình vì những câu thơ “khẩu chiếm” (khẩu khí) của mình về vận mệnh của ông Ngô Đình Diệm.
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thi văn của giới trí thức VN hòa hợp Bắc Nam và Đông Tây lên cao đến tuyệt đỉnh. Người di cư miền Bắc cũng hòa hợp với người trong Nam như 2 bài thơ của ông Nguyễn Vỹ và ông Trần Văn Hương vịnh Mùa Thu:
Thu ơi, ai nhuộm lá thu vàng
Lá ngập tơi bời đến ải quan
Cây cỏ ngậm ngùi sầu thế hệ
Nước non vương vấn hận thời gian
Vườn thơ vắng bướm hương tàn tạ
Cánh nhạn tung mây gió phũ phàng
Ôi mảnh hồn trăng từ vạn kỷ
Gieo chi đất bụi một màu tang.
(Nguyễn Vỹ)
Tàn lục lưa thưa điểm lá vàng
Heo may heo hắt giục thu sang
Sương lồng trướng khói: mờ gương thỏ
Gió vén rèm mây: chẳng bóng nhàn
Khí mát xông thềm, hơi dế lạnh
Mưa dầm trĩu nhánh, giọng thiền khan
Bắc Nam kinh vỹ trời tuy khác
Thu đến sầu thu cũng ngập tràn.
(Trần Văn Hương)
Ông Nguyễn Vỹ là một thi nhân tiền chiến ở miền Bắc nổi danh với Thơ Mới. Sau hiệp định Genève, ông làm báo ở Miền Nam nổi danh với Bán Nguyệt San Phổ Thông. Ông thường hay Xướng thơ Đường Luật trong những dịp đặc biệt và mời mọi người trong nước (VNCH) họa lại, chỉ cần trùng vần của câu đầu mà thôi.
Bài thơ trên của ông Nguyễn Vỹ là 1 bài thơ Xướng về mùa Thu (1961?) và có 113 bài họa được ông chọn đăng trong tập thơ bán kèm theo Phổ Thông tựa đề là “Nam thu hòa khúc”. Ông Trần Văn Hương ban đầu không có họa nhưng khi thấy có nhiều người hưởng ứng nên mới làm bài họa trên nhấn mạnh đến thời tiết Miền Nam trong mùa thu.
Điều lạ là vấn đề “Ý Thức Hệ” giữa Tư Bản (Miền Nam VNCH) và Cộng Sản (Miền Bắc VNDCCH) không ảnh hưởng đến ông Trần Văn Hương như đa số chính trị gia trong thời kỳ nầy:
Ăn Cơm Rồi Nói Chướng
Cơm rồi nói chướng chọc ai chơi
Có giận thì cam chớ nặng lời
Thịt béo cá ngon ăn phát ách
Trà thơm bánh ngọt nít mê tơi
Sướng thân quên kẻ quen đau khổ
No bụng xem đời rất sáng tươi
“Duy Vật? Duy Tâm?”- sai bét hết!
“Duy Bao Tử” mới đáng mười mươi.
(Trần Văn Hương)
Nguồn gốc từ miền Bắc, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập với Võ Chí Công, Huỳnh Tấn Phát và Phùng Văn Cung ngày 20-12-60 ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Tân Biên), Tây Ninh ở vùng gần biên giới Việt Miên. Quân Đội Giải Phóng Miền Nam lập ngày 15-2-61 và bắt đầu có chiến tranh ở Miền Nam.
Nhìn Xuân Nhân Dần Sang Cảm Tác
Trâu đi danh dữ hãy còn bêu
Cọp bước chân sang cũng lắm đều (điều)
Tiếng súng “tảo thanh” thay tiếng pháo (*)
Cây cờ “giải phóng” thế cây nêu (*)
Con đường thân ái đang tay lắp
Ngòi lửa oan cừu ráng sức khêu
Vói hỏi Ông Xanh thông cảm chẳng?
Thằng dân vắn cổ biết sao kêu.
(Trần Văn Hương)
5-2-62
(*) Chú thích:
Tết năm Nhâm Dần (1962), Quân đội GPMN ra lệnh cho các vùng quê không ăn Tết còn chính phủ VNCH thì ra lệnh cấm đốt pháo.
Ngày 16-2-62, đại hội lần thứ nhứt của Mặt Trận GPMN bầu Ls Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch với 3 người cũ làm Phó Chủ Tịch là Bs Phùng Văn Cung, Ks Huỳnh Tấn Phát và Võ Chí Công.
Thời kỳ Quân Quản (1963-67)
Ngày 1-11-63: Đảo chánh các Tướng Tá trong quân đội do Trung tướng Dương Văn Minh, Trung tướng Trần Văn Đôn, Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm (Tham mưu trưởng Liên quân) và Thiếu tướng Tôn Thất Đính (Tư lệnh Quân đoàn 3) cầm đầu. Quân chủ lực là của Sư đoàn 5 của Đại tá Nguyễn Văn Thiệu (ở Biên Hòa) và Sư đoàn 7 của Đại tá Nguyễn Hữu Có (ở Mỹ Tho).
Ngày 2-11-63: Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị giết.
Ngày 3-11-63: Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập để tạm thời lãnh đạo quốc gia. Đệ Nhất Cộng Hòa chấm dứt và Thời kỳ Quân Quản bắt đầu.
Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng:
Chủ tịch: Trung tướng Dương Văn Minh
Đệ nhất Phó Chủ tịch: Trung tướng Trần Văn Đôn
Đệ nhị Phó Chủ tịch: Trung tướng Tôn Thất Đính
Ủy viên Ngoại Giao kiêm Tổng Thư ký: Trung tướng Lê Văn Kim
Ủy viên Kinh Tế: Trung tướng Trần Văn Minh
Ủy viên An Ninh: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu
Ủy viên Quân Vụ: Trung tướng Trần Thiện Khiêm
Ủy viên Chính Trị: Thiếu tướng Đỗ Mậu
Ủy viên: Trung tướng Mai Hữu Xuân
Trung tướng Lê Văn Nghiêm
Thiếu tướng Nguyễn Văn Thiệu
Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có
Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ định Cựu Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lập Chính phủ.
Ngày 4-11-63: Chính phủ Lâm thời Nguyễn Ngọc Thơ thành lập.
Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ:
Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Kinh Tế: Nguyễn Ngọc Thơ
Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Trần Văn Đôn
Tổng trưởng An Ninh: Trung tướng Tôn Thất Đính
Tổng trưởng Ngoại Giao: Phạm Đăng Lâm
Tổng trưởng Tư Pháp: Nguyễn Văn Mầu
Tổng trưởng Giáo Dục: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
Tổng trưởng Cải Tiến Nông Thôn: Trần Lê Quang
Tổng trưởng Thông Tin: Thiếu tướng Trần Tử Oai
Tổng trưởng Công Chánh: Trần Ngọc Oánh
Tổng trưởng Y Tế: Vương Quang Trường
Tổng trưởng Lao Động: Nguyễn Lê Giang
Tổng trưởng Thanh Niên: Nguyễn Hữu Phi
Tổng trưởng Tài Chánh: Lưu Văn Tính
Tổng trưởng Kinh Tế: Âu Trường Thanh
Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng: Nguyễn Thành Cung
(Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ và các Tướng tá
(1) Nguyễn Ngọc Lễ (2) Trần Thiện Khiêm (3) Dương Văn Minh (4) Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ (5) Trần Văn Đôn (6) Tôn Thất Đính (7) Nguyễn Văn Thiện (8) Nguyễn Văn Vỹ (9) Nguyễn Cao Kỳ (10) Trần Ngọc Huyến (11) Nguyễn Hữu Có (12) Nguyễn Văn Thiệu (13) ? (14) Lê Nguyên Khang (15) Nguyễn Giác Ngộ (16) Dương Hiếu Nghĩa (17) Huỳnh Văn Cao.)
Ngày 30-1-64: Trung tướng Nguyễn Khánh làm cuộc "Chỉnh lý", bắt và quản thúc 4 Tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân và Lê Văn Kim ở Đà Lạt. Các Tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu và Đỗ Mậu theo cùng phe với Tướng Nguyễn Khánh.
Ngày 31-1-64: Trung tướng Nguyễn Khánh làm Chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. kiêm Tổng Tư lệnh Quân Đội.
Ngày 1-2-64: Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ từ chức và được Trung tướng Nguyễn Khánh chấp nhận (3-2-64)
Ngày 7-2-64: Hiến ước lâm thời số 2 giao quyền hành Quốc trưởng cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chỉ định. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cử Tướng Dương Văn Minh làm Quốc trưởng và Tướng Nguyễn Khánh lập chính phủ.
Ngày 8-2-64: Chính phủ Nguyễn Khánh thành lập.
Chính phủ Nguyễn Khánh:
Thủ tướng: Trung tướng Nguyễn Khánh
Phó Thủ tướng đặc trách Bình định: Nguyễn Tôn Hoàn
Phó Thủ tướng đặc trách Kinh Tế Tài Chánh: Nguyễn Xuân Oánh
Phó Thủ tướng đặc trách Văn Hóa Xã Hội: Thiếu tướng Đỗ Mậu
Quốc Vụ Khanh: Bác sĩ Lê Văn Hoạch
Tổng trưởng Ngoại Giao: Bác sĩ Phan Huy Quát
Tổng trưởng Nội Vụ: Hà Thúc Ký
Tổng trưởng Công Chánh: Trần Ngọc Oánh
Tổng trưởng Quốc Gia Giáo Dục: Bùi Tường Huân
Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Trần Thiện Khiêm
Tổng trưởng Cải Tiến Nông Thôn: Nguyễn Công Hầu
Tổng trưởng Y Tế: Vương Quang Trường
Tổng trưởng Lao Động: Đàm Sỹ Hiến
Tổng trưởng Thông Tin: Phạm Thái
Tổng trưởng Tài Chánh: Nguyễn Xuân Oánh
Tổng trưởng Kinh Tế: Âu Trường Thanh
Tổng trưởng Tư Pháp: Nguyễn Văn Mầu
Tổng trưởng Xã Hội: Trần Quang Thuận
Bộ trưởng tại Phủ Thủ Tướng: Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 21-3-64: Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng biểu quyết tự giải tán, nhường chỗ cho Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Thời của Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng (thay thế Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng):
Chủ tịch: Trung tướng Nguyễn Khánh
Đệ nhất Phó Chủ tịch: Trung tướng Trần Thiện Khiêm
Đệ nhị Phó Chủ tịch: Thiếu tướng Đỗ Mậu
Đệ tam Phó Chủ tịch: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu
Cố vấn Tối cao: Trung tướng Dương Văn Minh
Từ đầu tháng 8-64, bắt đầu có chống đối của Báo chí, Sinh viên, Phật Giáo (do Thượng tọa Thích Tâm Châu cầm đầu) và Công Giáo (do Linh Mục Hoàng Quỳnh cầm đầu). Rối loạn trong Chính phủ Nguyễn Khánh và Hội Đồng Quân Đội.
(Các Tướng Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh)
Ngày 8-9-64: Thượng Hội Đồng Quốc Gia thành lập theo Hiến chương Vũng Tàu, để chuyển dần sang Chính phủ dân sự.
Thượng Hội Đồng Quốc Gia gồm có 16 thành viên. Ông Phan Khắc Sửu làm Chủ tịch. Phó Chủ tịch là Nguyễn Xuân Chữ và Tổng Thư ký là Trần Văn Văn. Bác sĩ Hồ Văn Nhựt được cử lập chính phủ nhưng không làm được nên xin rút lui. Đô trưởng Sài Gòn là ông Trần Văn Hương được bổ nhiệm làm Thủ tướng và lập chính phủ.
Ngày 13-9-64: Trung tướng Dương Văn Đức và Thiếu tướng Lâm Văn Phát đem quân về đóng ở Sài Gòn Gia Định nhưng không được toàn thể quân đội (dưới quyền của Đại tướng Trần Thiện Khiêm) ủng hộ nên phải rút quân về. Sau đó Trung tướng Dương Văn Đức, Thiếu tướng Lâm Văn Phát và nhiều sĩ quan cùng phe bị cách chức.
Ngày 27-9-64: Ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ thay thế làm Quyền Chủ tịch Thượng Hội Đồng Quốc Gia.
Ngày 24-10-64: Đại tướng Trần Thiện Khiêm làm Đại sứ tại Hoa Kỳ.
(Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và chính phủ Trần Văn Hương)
Ngày 4-11-64: Chính phủ Trần Văn Hương thành lập.
Chính phủ Trần Văn Hương:
Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quân Lực: Trần Văn Hương
Đệ nhất Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội Vụ: Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên
Đệ nhị Phó Thủ tướng kiêm Thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia: Nguyễn Xuân Oánh
Tổng trưởng Ngoại Giao: Phạm Đăng Lâm
Tổng trưởng Tư Pháp: Lữ Văn Vi
Tổng trưởng Thông Tin: Lê Văn Tuấn
Tổng trưởng Kinh Tế: Nguyễn Duy Xuân
Tổng trưởng Tài Chính: Lưu Văn Tính
Tổng trưởng Cải Tiến Nông Thôn: Ngô Ngọc Đối
Tổng trưởng Công Chánh: Lê Sĩ Ngạc
Tổng trưởng Văn Hóa Giáo Dục: Phan Tấn Chức
Tổng trưởng Y Tế: Trần Quang Diệu
Tổng trưởng Xã Hội: Đàm Sĩ Hiến
Tổng trưởng Lao Động: Nguyễn Hữu Hùng
Tổng trưởng Phủ Thủ Tướng: Phạm Văn Toàn
Chính phủ Trần Văn Hương bị Phật giáo và Sinh viên chống đối kịch liệt. Ngoài ra còn có xung đột giữa Phật Giáo và Công Giáo.
Ngày 18-12-64, Tổng Tư lệnh Quân Đội là Đại tướng Nguyễn Khánh lập một Hội Đồng Quân Lực để giúp đỡ Tổng Tư lệnh.
Ngày 20-12- 64: Nhân danh Hội Đồng Quân Lực, Tướng Nguyễn Khánh giải tán Thượng Hội Đồng Quốc Gia.
Thủ tướng Trần Văn Hương phải thu nạp thêm các Tướng lãnh vào chính phủ:
Đệ nhị Phó Thủ tướng: Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu
Tổng trưởng Quân Lực: Trung tướng Trần Văn Minh
Tổng trưởng Tâm Lý Chiến: Trung tướng Linh Quang Viên
Tổng trưởng Thanh Niên Thể Thao: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Ông Nguyễn Xuân Oánh xuống thành Đệ tam Phó Thủ tướng.
Phật Giáo vẫn chống đối biểu tình tuyệt thực: Cầm đầu là các Thượng tọa Thích Tâm Châu, Thích Trí Quang, Thích Hộ Giác và Thích Thiện Minh.
Ngày 24-1-65: Hội Đồng Quân Lực bãi nhiệm Thủ tướng Trần Văn Hương và đem giam ông ở Vũng Tàu. Ông Nguyễn Xuân Oánh ủy nhiệm lập chính phủ mới nhưng không thành.
Ngày 27-1-65: Đại tướng Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý lật đổ chính quyền dân sự và truất phế Quốc trưởng Phan Khắc Sửu.
Ngày 20-2-65: Đảo chánh thất bại của Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo.
Phe các Tướng trong nội bộ của Hội Đồng Quân Lực dàn xếp ép Tướng Nguyễn Khánh phải lưu vong và ủy quyền cho Bác sĩ Phan Huy Quát lập chính phủ dân sự. Quyền hành của 2 Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm hoàn toàn chấm dứt. Hai Tướng bắt đầu lãnh đạo Hội Đồng Quân Lực là Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Cuối tháng 2-65: Chính phủ Phan Huy Quát thành lập:
Thủ tướng: Bác sĩ Phan Huy Quát
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Ngoại Giao: Bác sĩ Trần Văn Đỗ
Phó Thủ tướng phụ trách Kế hoạch: Luật sư Trần Văn Tuyên
Bộ trưởng Thông Tin: Trung tướng Linh Quang Viên
Bộ trưởng Giáo Dục: Nguyễn Tiến Hỷ
Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng: Bùi Diếm
Chính phủ Phan Huy Quát lại bị Công Giáo chống đối. Sự bất đồng chánh kiến giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát đưa đến sự kiện cuối cùng là Chính phủ dân sự bị "quân đội" giải tán (kể cả chức vụ Quốc trưởng) vào ngày 11-6-65.
Ngày 12-6-65: Hội Đồng Quân Lực lập ra Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, tổ chức sau cùng của Thời kỳ Quân Quản:
Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có trọng trách chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chính thức từ ngày 19-6-65 là ngày Ủy Ban trình diện quốc dân nên gọi ngày đó là ngày Quân Lực. Ngày Quốc Khánh vẫn là ngày 1-11.
Ủy Ban lập ra Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là Nội các Chính phủ
Hội Đồng Quân Lực tự giải tán (14-6-65)
Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia có 11 chức vụ (và 9 Thành viên):
Chủ tịch, tương đương với Quốc trưởng: Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu
Tổng Thư ký: Trung tướng Phạm Xuân Chiểu
Ủy viên phụ trách điều khiển Hành pháp (Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương), tương đương với Thủ tướng: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ
Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Nguyễn Hữu Có
Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội: Trung tướng Nguyễn Hữu Có
Tư lệnh Quân đoàn I: Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi
Tư lệnh Quân đoàn II: Thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh
Tư lệnh Quân đoàn III: Thiếu tướng Cao Văn Viên
Tư lệnh Quân đoàn IV: Thiếu tướng Đặng Văn Quang
Tư lệnh Hải Quân: Đề đốc Trần Văn Chơn
Tư lệnh Không Quân: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ
Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (từ tháng 6-65 đến tháng 11-67) thay thế Chánh phủ Phan Huy Quát và sẽ nhường lại cho chính phủ dân sự của nền Đệ nhị Cộng Hòa
Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương là Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, ở cương vị Thủ tướng.
Các thành viên trong Ủy Ban:
1. Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên: Phó Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương
2. Bác sĩ Trần Văn Đỗ: Tổng Ủy viên Ngoại Giao
3. Thẩm phán Trần Minh Tiết: Tổng Ủy viên Tư Pháp
4. Luật sư Nguyễn Hữu Thống
5. Dược sĩ La Thành Nghệ
6. Giáo sư Trần Văn Kiện
7. Bác sĩ Trần Lữ Y
8. Nguyễn Xuân Phong: Ủy viên Lao Động
9. Bùi Diễm: Ủy viên Ngoại Giao
10. Âu Trường Thanh: Tổng Ủy viên Kinh Tế Tài Chánh
11. Trương Văn Thuấn: Tổng Ủy viên Giao Thông
12. Nguyễn Văn Trường: Tổng Ủy viên Giáo Dục
13. Bác sĩ Trần Ngọc Ninh: Tổng Ủy viên Văn Hóa Xã Hội kiêm Ủy viên Giáo Dục
14, Trung tướng Đặng Văn Quang: Tổng Ủy viên Kế Hoạch
15. Thiếu tướng Nguyễn Bảo Trị: Tổng Ủy viên Thông Tin Chiêu Hồi kiêm Tổng Cục trưởng Chiến tranh Chính trị
16. Thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng: Tổng Ủy viên Xây Dựng
17. Võ Long Triều: Tổng Ủy viên Thanh Niên Thể Thao.
Thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-75)
(Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và chính phủ Trần Thiện Khiêm)
Liên danh Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ thắng cử trong cuộc đầu phiếu năm 1967, chính thức thành lập Đệ Nhị Cộng Hòa với Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó Tổng thống. Tổng thống chỉ định Thủ tướng và Thủ tướng thành lập Chính phủ (Nội các). Được chỉ định, Luật sư Nguyễn Văn Lộc làm Thủ tướng và lập Nội các (9-11-67). Liên danh Trần Văn Hương và Mai Thọ Truyền đứng hạng nhì trong cuộc tuyển cử.
Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương giải tán tháng 11-67.
Chính phủ Nguyễn Văn Lộc (1967-1968)
Thủ tướng: Luật sư Nguyễn Văn Lộc
Tổng trưởng Ngoại Giao: Bác sĩ Trần Văn Đỗ
Tổng trưởng Nội Vụ: Trung tướng Linh Quang Viên
Tổng trưởng Xây Dựng Nông Thôn: Trung tướng Nguyễn Đức Thắng
Tổng trưởng Tài Chánh: Lưu Văn Tính
Tổng trưởng Kinh Tế: Trương Thái Tôn
Tổng trưởng Văn Hóa Giáo Dục: Giáo sư Tăng Kim Đông
Tổng trưởng Canh Nông và Điền Địa: Tôn Thất Trình
Tổng trưởng Chiêu Hồi: Nguyễn Xuân Phong
Tổng trưởng Giao Thông và Vận Tải: Lương Thế Siêu
Tổng trưởng Công Chánh: Bửu Đôn
Tổng trưởng Y Tế: Bác sĩ Trần Lữ Y
Tổng trưởng Xã Hội và Tỵ Nạn: Bác sĩ Nguyễn Phúc Quế
Tổng trưởng Cựu Chiến Binh: Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng
Tổng trưởng Lao Động: Giáo sư Phó Bá Long
Tổng trưởng Phát Triển Sắc Tộc: Paul Nur
Tổng trưởng Tư Pháp: Huỳnh Đức Bửu
Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc bị chỉ trích và ép từ chức. Ông Trần Văn Hương thay thế làm Thủ tướng với Nội các mới (28-5-68) cho đến ngày 1-9-69 thì có Nội các mới của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm.
Ông Nguyễn Văn Lộc (1922-1992) sinh ở quận Châu Thành, Vĩnh Long. Ông đậu Cử nhân Luật tại đại học Montpellier (1954) và tốt nghiệp Cao học Hình Luật tại đại học Paris (1964). Ông là Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài Gòn từ năm 1955. Tháng 11-67, ông Nguyễn Văn Lộc được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định làm Thủ tướng lập nội các chính phủ đầu tiên của nền Đệ nhị Cộng Hòa. Sau vụ binh biến Mậu Thân, ông bị ép từ chức. Sau đó ông không làm chính trị mà chỉ dạy học. Năm 1969-70, ông là giáo sư ở đại học Hòa Hảo (An Giang). Năm 1971-72, ông làm Viện trưởng viện đại học Cao Đài Tây Ninh.
Chính phủ Trần Thiện Khiêm (1969-1975)
Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội Vụ: Đại tướng Trần Thiện Khiêm
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo Dục: Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên
Tổng trưởng Ngoại Giao: Dược sĩ Trần Văn Lắm
Tổng trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ
Tổng trưởng Thông Tin: Luật sư Ngô Khắc Tỉnh
Tổng trưởng Xây Dựng Nông Thôn: Thiếu tướng Trần Thanh Phong
Tổng trưởng Tài Chánh: Nguyễn Bích Huệ
Tổng trưởng Kinh Tế: Phạm Kim Ngọc (69-71) và Nguyễn Đức Cường (71-75)
Tổng trưởng Văn Hóa Giáo Dục: Giáo sư Tăng Kim Đông
Tổng trưởng Cải Cách Canh Nông và Ngư Nghiệp: Cao Văn Thân
Tổng trưởng Chiêu Hồi: Bác sĩ Hồ Văn Châm
Tổng trưởng Giao Thông: Trần Văn Viễn
Tổng trưởng Công Chánh: Dương Kích Nhưỡng
Tổng trưởng Y Tế: Bác sĩ Trần Minh Tùng
Tổng trưởng Xã Hội: Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu
Tổng trưởng Lao Động: Đàm Sĩ Hiến
Tổng trưởng Phát Triển Sắc Tộc: Paul Nur
Tổng trưởng Tư Pháp: Luật sư Lê Văn Thu
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử trong cuộc bầu cử ngày 3-10-1971 trong liên danh với ông Trần Văn Hương. Từ đó ông Trần Văn Hương là Phó Tổng Thống thay thế Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) có những sự kiện lịch sử quan trọng:
Hiến pháp và Tuyển cử (1967)
Chiến tranh Cục bộ (1967-68)
Chiến tranh Mậu Thân (1968)
Việt Nam hóa chiến tranh (1968-73)
Cải Cách Điền Địa lần thứ 2 (1969-73)
Tuyển cử (1971)
Hiệp định Paris (1972-1974)
Chiến tranh mùa Xuân (1974-75)
Người Lãnh Đạo Quốc Gia
Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ trong cuộc đảo chánh 1-11-63, ông Trần Văn Hương làm Đô Trưởng Sài Gòn lần thứ hai (1964), nổi danh với “đi làm bằng xe đạp”. Sau đó ông tham gia chính quyền của Đệ Nhị Cộng Hòa giữ chức Thủ Tướng lần thứ nhứt (1964-1965) của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng lần thứ nhì (1968-1969) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Ông đắc cử và làm Phó Tổng Thống với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1971-1975). Ngày 21-4-75, ông trở thành Tổng Thống khi ông Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam và ngày 28-4-75, ông Trần Văn Hương nhường chức Tổng Thống cho học trò cũ của mình là Cựu Đại Tướng Dương Văn Minh. Miền Nam mất ngày 30-4-75.
Ông Trần Văn Hương sống ở Sài Gòn cho đến khi qua đời (1982) với em gái, em rể và người con lớn là Trần Văn Dõi. Con thứ của ông Trần Văn Hương là ông Trần Văn Đính (thường là Phụ Tá cho ông) di tản năm 1975 và định cư ở California. Trần Văn Dõi, lấy họ mẹ với tên mới là Lưu Vĩnh Châu, là 1 cán bộ thường, trước theo kháng chiến Việt Minh ở ngoài Bắc có đánh trận Điện Biên Phủ, cấp bực Đại Úy trong quân đội (Miền Bắc). Ông Trần Văn Hương cũng có người em là ông Lâm Văn Giỏi là một Giáo sư của trường Trung học Phan Thanh Giản (ở Cần Thơ).
Thi sĩ Trần Văn Hương
Vốn là giáo sư việt văn, ông Trần Văn Hương là một thi sĩ kỳ tài. Ngoài đề tài lịch sử chính trị, ông còn làm thơ về những vấn đề văn hóa.
Đây là đề tài tôn giáo trong thơ Trần Văn Hương.
Vô Đề
Ta thấy người tu ta cũng tu
Cũng chuông cũng mõ cũng công phu
Tháng ngày rau thịt, chay hòa mặn
Hôm sớm kinh văn, sáng lẫn mù
Chưa hẳn nhà thuyền (thiền) hơn khách tục
Chớ khoe mình trí để người ngu
Vả tu đâu phải chuyên hành xác
Di Lạc ngồi kia vẫn mập ù?
(Trần Văn Hương)
(Câu Đối)
Đạo cứ hỏi nơi Tâm, đừng trai giới kệ kinh làm rộn Phật.
Phúc lựa cầu với Phật, hãy khiêm từ nhiêu nhẫn để nên Tâm.
(Trần Văn Hương)
Đặc biệt là ông Trần Văn Hương rất thích họa thơ. Ông thường tìm họa những bài thơ khó.
- Họa thơ Phan Khôi:
Viếng Mộ Ông Lê Chất (Nguyên bản)
Bình Tây Trấn Bắc sử nghìn thu
Ấy cỏ mờ rêu đất một u
Ấy dũng ấy trung là thế thế!
Mà ân mà nghĩa ở mô mô?
Chim gào hờn xót xuân ầm ỹ
Hùm thét oai lưa gió vụt vù
Cái chuyện anh hùng ai nhắc nữa
Hồ Tây văng vẳng tiếng chuông bu!
(Phan Khôi) 1921
Dù là một bài thơ “tử vận” nhưng có người người họa được:
Điếu Ông Lê Chất (Họa)
Thân danh bách chiến được bao thu
Vùi nắm xương tàn chốn tịch u
Đất Bắc vỗ dân công nhớ đó
Non Tây phá giặc sử ghi mô? (*)
Tấm gương trung liệt gương bôi lợt
Ngọc đuốc ân oai gió thổi vù
Làm vật hy sinh phơi mặt tợ
Để cho ruồi kiến mặc tình bu.
(Trần Văn Hương) 1962
(*) Chú thích: Non Tây = Tây Sơn
Ông Lê Chất (1769-1826) nguyên là tướng của nhà Tây Sơn. Khi vua Cảnh Thịnh giết hại công thần kể cả nhạc phụ của ông là Lê Trung, ông Lê Chất bỏ theo ông Võ Tánh ở Bình Định, về với Nguyễn Vương Phúc Ánh (1799). Ông là phó tướng của ông Lê Văn Duyệt đem lục quân chiếm Bắc Hà và sau nầy làm đến Tổng Trấn Bắc Thành. Khi chết, ông có mộ chôn ở Hà Nội.
- Họa thơ vua Thành Thái
Hơn 30 năm bị lưu đày, khi trở về qua Cap St Jacques, Cựu hoàng Thành Thái cũng có làm bài thơ theo thể liên hoàn và được ông Trần Văn Hương họa lại.
Tự Thán (Nguyên bản)
Sống thừa nào biết có hôm nay
Nhìn thấy non sông đất nước nầy!
Sừng ngựa chưa quên câu chuyện cũ
Ruột tằm đoài đoạn mối sầu tây
Thành Xuân nghìn dặm mây mù mịt (*)
Bể Cấp bốn bề sóng bổ vây
Tiếng súng đêm trường nghe nhặt khúc
Dầu cho sắt đá cũng châu mày.
Châu mày lụy ứa suốt canh thâu
Đất tổ hồn thiêng đâu ở đâu?
Dưới một bầu trời chung Bách Việt
Trên hai cõi đất vạch Hồng Câu (*)
Giá than trách kẻ lòng đen bạc
Trùn dế thương ai kiếp dãi dầu
Mãi đứng núi nầy trông núi nọ
Hỏi bao giờ bể hóa thành dâu? (*)
(Thành Thái)
(*) Chú thích:
Thành Xuân = Phú Xuân (Huế) kinh đô của nhà Nguyễn.
Hồng Câu là nơi Lưu Bang và Hạng Vũ họp để chia mỗi người ½ nước Tàu; chứng tỏ bài thơ nầy làm sau 1947 khi nước ta có 2 nước VNDCCH trên vỹ tuyến 16 của VM và Quốc Gia VN dưới vỹ tuyến 16 của Bảo Đại.
Từ câu "Thương hải biến vi tang điền" (Biển hóa thành ruộng dâu).
Tự Thán (Họa)
Ba chục năm chờ mới có nay
Cái mừng nào đổi cái mừng này
Tinh long chực thuở về đài bắc
Hồ mã quên ngày hí gió tây (*)
Nên để con côi hùm sắp cật?
Hay mong biển rộng ngạc giương vây?
Phải chăng vận nước nhờ tay cũ
Mà giống dân ta nở mặt mày
Mày mặt nào cam chịu phục thâu
Tình nhà nổi nước trọng khinh đâu?
Ấp gò may được trời gieo vận
Đỡ vạc mong chờ khách thả câu
Xót kẻ phơi sương cùng nát thịt
Thương dân cạn mỡ với khô dầu
Xem bầu nhiệt huyết còn chưa nguội
Biển thẳm còn ngày hóa ruộng dâu. (*)
(Trần Văn Hương)
Chú thích:
Từ câu "Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi" (Ngựa Hồ hí gió Bắc. Chim Việt đậu cành Nam). Ám chỉ nhớ quê nhà.
Từ câu "Thương hải biến vi tang điền" (Biển hóa thành ruộng dâu).
Tiếc thay ông Trần Văn Hương không có thì giờ làm thơ sau năm 1963 vì bận rộn ở chính trường. Hậu thế có những bài thơ tưởng nhớ ông.
Vịnh Trần Văn Hương (Nguyên bản)
Trần thế lâu nay vắng bóng Ông
Một lòng tận tụy với non sông
Không xu thời cuộc không màng lợi
Chẳng cậy quyền hành chẳng hám công
Quốc vận long đong nào đổi dạ
Tâm can ngay thẳng khó thay lòng
Đồng cam hoạn nạn cùng dân chúng
Hậu bối muôn đời mãi nhớ Ông.
(Hồ Mỹ Đức)
1/28/17
Vịnh Trần Văn Hương (Họa)
Sống tròn đạo đức trọn đời Ông
Cam chịu số phần với núi sông
Vị nghĩa chí tình không vị lợi
Thành nhân chi mỹ chẳng thành công
Vận suy, chính trực đầy thi hứng
Nước mất, tận trung trải tấm lòng
Gương sáng ngàn năm lưu hậu thế
Bi hùng lịch sử một đời Ông.
(Phan Thượng Hải)
1/29/17
Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền
Bài viết nầy đăng lần đầu tiên trong phanthuonghai.com (trong mục "Thơ và Sử" phần "Thời Độc Lập").
Tài liệu tham khảo:
1) Thơ và Việt Sử - Thời kỳ Độc Lập (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com
2) Lao Trung Lãnh Vận (Trần Văn Hương)
3) Hai Mươi Năm Qua: 1945-1964 Việc Từng Ngày (Đoàn Thêm)
4) Google Wikipedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét