Nhà thơ Đỗ Quý Bái là đàn chủ Diễn đàn “ Một Lối Vào Đường Thi” kỳ 22 này. Anh mời ta đi dạo vườn thơ với bốn bài thơ: Thanh Bình Điệu kỳ I của Lý Bạch, Tương Tiến Tửu cũng cuả Lý Bạch, Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị và bài Đoạn Trường Ngâm Khúc mà anh là tác giả. Anh chỉ dịch hai bài thơ đầu, bài thứ ba anh giới thiệu bản dịch của Phan Huy Thực còn bài cuối anh nói bị ảnh hưởng của Tỳ Bà Hành, bài thơ anh “chỉ đọc qua một lần mà thuộc nằm lòng ngay như biết từ kiếp xa xưa nào đó.”
Cấu trúc bài thơ của anh cũng na ná như Tỳ Bà Hành, một đêm trên bến Thủ Thiêm một du tử đang ngồi câu, chẳng thấy cá ngậm mồi mà cảm thấy mình đang ngậm mối sầu xa quê và thời thế, chợt nghe tiếng sáo vẳng tới, nghe như bày tỏ giúp tấm lòng của mình nên tìm tới người thổi sáo và được người này kể chuyện đời của người này cùng bảy người chiến hữu:
Bến Thủ Thiêm đêm trường bó gối
Gác cần câu ngậm mối sầu miên
Buồn cho thế cuộc đảo điên
Biết cùng ai tỏ nỗi phiền xa quê...
còn trong bài thơ của Bạch Cư Dị thì cũng là một đêm khuya trên bến Tầm Dương, một ông quan bị biếm tiễn đưa khách, chợt nghe vẳng lại tiếng tỳ bà nên cũng tìm lại và được người gảy đàn, một thiếu phụ kể lại cuộc đời hồng nhan đa truân của mình:
Nội dung của hai bài thơ cũng quy về một vấn đề mà chính nhà thơ ĐQBái cũng tự chú giải là Tài mệnh tương đố hay Chữ tài liền với chữ tai một vần.Cuộc đời của người ca nương khi còn trẻ đã huy hoàng một thời, được bao khách hào hoa theo đuổi tới khi hoa tàn, đành phải kết duyên với một lái buôn trọng tiền bạc hơn tình nghĩa, nên dùng tiếng đàn thay cho lời than thở, ngờ đâu lại cũng là hoàn cảnh của khách tri âm, một Giang châu Tư mã bị biếm trích, cho nên đồng thanh tương ứng, đồng cảm tương cầu, vừa thương cảm cho số phận của kẻ đàn, vừa buồn tủi cho thân phận mình mà lệ rơi đẫm tà áo xanh.
Trong bài thơ Đoạn Trường Ngâm Khúc thì người đàn là một thương phế binh trong một trận pháo kích khiến bảy chiến hữu đều tử thương chỉ còn mình sống sót nhưng lại bị cụt giò. Thế là bao nhiêu chí lớn, đội trời đạp đất, trả nợ núi sông đều tan tành ra mây khói và đêm nay thương nhớ bằng hữu mà dùng tiếng sáo bày tỏ nỗi lòng. Trong các bằng hữu anh kể rõ tên bác sĩ Phạm Văn Bách đã hi sinh tại mặt trận Tây Uyên và để lại biết bao thương nhớ cho một người yêu đã từng cùng nhau thề non hẹn biển.
Bạch Cư Dị tả tiếng đàn cũng là tiếng lòng của ca nương, ĐQBái tả tiếng sáo để nói lên nỗi lòng của người thương phế binh, hai hoàn cảnh, hai số phận nhưng chung một nỗi niềm buồn tủi cho thân phận kiếp người. Xin mời nghe Tiếng đàn tỳ bà:
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Chau mày tay gẩy khúc sầu
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Suối tuôn róc rách chảu mau xuống ghềnh
Tiếng sáo:
Nghe chua xót bầm gan tím ruột
Nghe thảm sầu tê buốt óc tim
Nước cau mày lệ im lìm
Trăng tà ảm đạm khuất chìm trời tây
Gió gây gấy chở đầy nuối tiếc
Mây bàng hoàng đặc sệt hờn căm
Trầm như ma rú cõi âm
Cao như trời thẳm bặt tăm phi thuyền
Giốc trủy vũ ré lên nức nở
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Chau mày tay gẩy khúc sầu
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Suối tuôn róc rách chảu mau xuống ghềnh
Tiếng sáo:
Nghe chua xót bầm gan tím ruột
Nghe thảm sầu tê buốt óc tim
Nước cau mày lệ im lìm
Trăng tà ảm đạm khuất chìm trời tây
Gió gây gấy chở đầy nuối tiếc
Mây bàng hoàng đặc sệt hờn căm
Trầm như ma rú cõi âm
Cao như trời thẳm bặt tăm phi thuyền
Giốc trủy vũ ré lên nức nở
Đồ rê mi rung vỡ sao khuya
Trắng sông sương muối ủ ê
Hàng dừa hiu quạnh lê thê dâng sầu...
Trắng sông sương muối ủ ê
Hàng dừa hiu quạnh lê thê dâng sầu...
Hai bài thơ, bài Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị và bài Đoạn Trường Ngâm Khúc của Đỗ Quý Bái cách nhau cả một ngàn mấy trăm năm mà tưởng như cùng đồng thời, cùng một nhân sinh quan, cùng một triết thuyết và cùng gây cho người đọc một cảm xúc “ Buồn ơi xa vắng mông mênh là buồn”.
Bạch Cư Dị khi nghe đàn tỳ bà khúc cuối:
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu Tư mã đượm mùi áo xanh.
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu Tư mã đượm mùi áo xanh.
Người nghe thổi sáo trong thơ Đỗ Qúy Bái:
Tiêu âm đã xót xa não nuột
Tâm sự thêm tê buốt khối sầu
Anh hùng vận bĩ càng đau
Thương ai lã chã lệ châu hai hàng.
Tuy nhiên hai nhà thơ cách nhau cả trên ngàn năm này chỉ đồng hành tới đây thôi còn cái nguyên nhân của nỗi buồn vạn cổ rất khác nhau. Cái buồn của Bạch Cư Dị chỉ giới hạn cho một cá nhân dù cá nhân đó là ca nương kia hay chính ông còn nỗi buồn của Đỗ Qúy Bái thì lớn rộng hơn nhiều, anh buồn không những chỉ riêng cho cá nhân người thương phế binh, cá nhân PVBách mà còn buồn cho cả một thế hệ trai trẻ chưa trả được nợ cho núi sông, anh buồn cho cả một đất nước đã trải qua nhiều cảnh tượng tang thương mà nước mắt anh lã chã cũng là để khóc cho cả một cõi người lẫn cõi đời.
Về hình thức hay thể thơ, Phan Huy Thực dùng thể song thất lục bát để diễn dịch và Đỗ Qúy Bái cũng dùng thể thơ này. Tôi đã đọc nhiều thơ của anh và thấy thể thơ song thất lục bát là sở trường của anh.
Về lời thơ, anh viết ra như tự cõi lòng nên đọc lên nghe thấm thía, buốt óc, nhức tim chứ không phải là những lời lẻ hời hợt, gọt dũa tầm thường.
Bài thơ Tỳ Bà hành có tất cả 22x4=88 câu kể là đã khá dài, bài Đoạn Trường Ngâm Khúc còn dài hơn gấp đôi, gồm 54x4=216 câu mà tài tình ở chỗ các đoạn nối nhau rất mạch lạc, gắn bó như thể một hơi dài chứ không rời rạc, đứt quãng hay chắp nối. Tôi thực phục tài anh Bái đã cả tiếng lại dài hơi. Anh xứng đáng là một mõ trong làng thơ.
Anh Bái không dịch bài Tỳ Bà Hành cho nên tôi xin giới thiệu bản dịch của BS Nguyễn Văn Bảo, bút hiệu Con Cò. BS Bảo rất mãn nguyện với bài thơ dịch Tỳ Bà Hành này và nêu ra những chỗ đắc ý mà tôi thấy rất xác đáng, còn BS Nguyễn Thượng Vũ đã hạ bút là bài thơ dịch hay không kém gì những bài từng được công nhận là tuyệt tác. Phần tôi rất thích thú, xem đi đọc lại nhiều lần, khi so sánh với nguyên bản, lúc đối chiếu với các bản dịch khác và rất khâm phục thi tài của người bạn tuy chỉ mới kiến kỳ danh bất kiến kỳ hình nhưng kiến thi như kiến nhân, đồng thời cũng nhận thấy nhận định của BS Vũ là rất chuẩn xác.
Khúc Ca Tì Bà
Bến Tầm Dương đêm đưa chân khách
Ngàn phong lau luồn lạch gió thu
Ta xuống ngựa khách ngừng đò
Tiệc không đàn sáo rượu hờ trên môi
Giờ phân ly sao vui để uống?
Lúc chia tay trăng sáng đầy sông
Tì bà văng vẳng giữa dòng
Khách chưa vội trẩy ta không muốn rời
Dò tiếng hỏi ai chơi đàn đó?
Tì bà ngưng thuyền nọ ngại ngần
Cho thuyền chèo sát lại gần
Khêu đèn thêm rượu tiếp tân chào mời
Mời mọc mãi khiến người chọn lựa
Ôm tì bà che nửa mặt hoa
Vặn đàn thử tám dây tơ
Dẫu chưa nên khúc đã ưa lòng người
Ý thanh tao nhạc thời ẩn ức
Dường phô bày buồn bực bấy nay
Vờn năm ngón nhíu chân mày
Giãi bày tâm sự tám dây ngàn hàng
Dây vuốt nhẹ tiếng đàn dìu dặt
Thoạt Nghê Thường sau thoắt Lục yêu
Dây to xầm xập mưa rào
Nỉ non dây nhỏ thì thào niềm riêng
Đang nỉ non hòa thêm xầm xập
Như hạt châu rơi ngập mâm vàng
Như oanh ríu rít cành lan
Như ghềnh đá chảy suối tràn dòng xuôi
Suối ngưng đọng đàn chơi ngừng bặt
Đàn nghỉ ngơi tiếng nhạc cũng im
Nỗi niềm u uất vươn lên
Âm vang so với im lìm còn thua
Bình bạc bể nước khua lai láng
Vó câu ròn sang sảng gươm đao
Bốn dây móng phẩy mạnh vào
Tiếng như xé lụa. Dạt dào. Đàn xong.
Thuyền tứ phía tuyệt không tiếng nói
Giữa dòng sông trăng rọi trắng ngà
Móng đàn cài lược dây tơ
Chỉnh y. Khép nép. Đứng chờ nghiêm trang:
“Xưa kinh đô vốn hàng dân nữ
Cồn Hà mô cư ngụ cửa nhà
Mười ba tuổi thạo tì bà
Giáo phường đệ nhất tài ba hơn người
Kẻ sành điệu hết lời thán phục
Ả Thu Nương ghen tức điểm trang
Ngũ Lăng trai trẻ trao khăn
Mỗi khi tấu nhạc hồng khăn đầy nhà
Lược trâm vàng gẫy pha nhịp gõ
Rượu thưởng tài hoen ố quần hồng
Tháng năm vui thú mặc lòng
Trăng thu lần lữa xuân nồng trôi qua
Em tòng quân dì đà khuất núi
Nhan sắc theo sớm tối tàn phai
Ngựa xe thưa thớt bên ngoài
Tuổi già kết tóc với người thương nhân
Chồng ham lợi khinh phần ly biệt
Nẻo Phù Lương tháng trước buôn trà
Thuyền không thiếp đậu ven bờ
Quanh thuyền trăng giãi sông xưa lạnh lùng
Đêm thanh vắng mộng vùng thơ ấu
Lệ trong mơ lăn xấu má hồng”
Tì bà nghe đã mủi lòng
Lại thêm nàng kể sao không ngậm ngùi?
Cùng một lứa chân trời lưu lạc
Gặp nhau đâu cần trước quen nhau
Rời kinh năm ngoái dãi dầu
Tầm Dương dất trích bệnh lâu chưa lành
Nẻo Tầm Dương vắng tanh âm nhạc
Suốt quanh năm đàn hát chẳng nghe
Bồn thành ẩm thấp nặng nề
Quanh nhà mọc những lau tre cỗi cằn
Từ sáng chiều nghe toàn âm lậu
Vượn hú sầu rướm máu quốc kêu
Sông xuân hoa sớm trăng chiều
Một thân. Một hũ. Một điều:ta say.
Rừng có nhạc thôn này cũng có
Tiếng líu lo làm khó tai ta
Đêm nay nghe khúc tì bà
Tâm hồn sảng khoái tưởng là nhạc tiên
Khoan từ giã đàn thêm khúc nữa
Tì Bà Hành soạn sửa vì nàng
Vâng lời. Do dự. Nhặt khoan
Tám dây rung động tiếng đàn thăng hoa
Nhạc sầu thảm không như khúc trước
Khách trong thuyền sướt mướt lệ sa
Lệ ai suối chảy chan hòa?
Giang Châu tư mã đẫm tà áo xanh.
Ngàn phong lau luồn lạch gió thu
Ta xuống ngựa khách ngừng đò
Tiệc không đàn sáo rượu hờ trên môi
Giờ phân ly sao vui để uống?
Lúc chia tay trăng sáng đầy sông
Tì bà văng vẳng giữa dòng
Khách chưa vội trẩy ta không muốn rời
Dò tiếng hỏi ai chơi đàn đó?
Tì bà ngưng thuyền nọ ngại ngần
Cho thuyền chèo sát lại gần
Khêu đèn thêm rượu tiếp tân chào mời
Mời mọc mãi khiến người chọn lựa
Ôm tì bà che nửa mặt hoa
Vặn đàn thử tám dây tơ
Dẫu chưa nên khúc đã ưa lòng người
Ý thanh tao nhạc thời ẩn ức
Dường phô bày buồn bực bấy nay
Vờn năm ngón nhíu chân mày
Giãi bày tâm sự tám dây ngàn hàng
Dây vuốt nhẹ tiếng đàn dìu dặt
Thoạt Nghê Thường sau thoắt Lục yêu
Dây to xầm xập mưa rào
Nỉ non dây nhỏ thì thào niềm riêng
Đang nỉ non hòa thêm xầm xập
Như hạt châu rơi ngập mâm vàng
Như oanh ríu rít cành lan
Như ghềnh đá chảy suối tràn dòng xuôi
Suối ngưng đọng đàn chơi ngừng bặt
Đàn nghỉ ngơi tiếng nhạc cũng im
Nỗi niềm u uất vươn lên
Âm vang so với im lìm còn thua
Bình bạc bể nước khua lai láng
Vó câu ròn sang sảng gươm đao
Bốn dây móng phẩy mạnh vào
Tiếng như xé lụa. Dạt dào. Đàn xong.
Thuyền tứ phía tuyệt không tiếng nói
Giữa dòng sông trăng rọi trắng ngà
Móng đàn cài lược dây tơ
Chỉnh y. Khép nép. Đứng chờ nghiêm trang:
“Xưa kinh đô vốn hàng dân nữ
Cồn Hà mô cư ngụ cửa nhà
Mười ba tuổi thạo tì bà
Giáo phường đệ nhất tài ba hơn người
Kẻ sành điệu hết lời thán phục
Ả Thu Nương ghen tức điểm trang
Ngũ Lăng trai trẻ trao khăn
Mỗi khi tấu nhạc hồng khăn đầy nhà
Lược trâm vàng gẫy pha nhịp gõ
Rượu thưởng tài hoen ố quần hồng
Tháng năm vui thú mặc lòng
Trăng thu lần lữa xuân nồng trôi qua
Em tòng quân dì đà khuất núi
Nhan sắc theo sớm tối tàn phai
Ngựa xe thưa thớt bên ngoài
Tuổi già kết tóc với người thương nhân
Chồng ham lợi khinh phần ly biệt
Nẻo Phù Lương tháng trước buôn trà
Thuyền không thiếp đậu ven bờ
Quanh thuyền trăng giãi sông xưa lạnh lùng
Đêm thanh vắng mộng vùng thơ ấu
Lệ trong mơ lăn xấu má hồng”
Tì bà nghe đã mủi lòng
Lại thêm nàng kể sao không ngậm ngùi?
Cùng một lứa chân trời lưu lạc
Gặp nhau đâu cần trước quen nhau
Rời kinh năm ngoái dãi dầu
Tầm Dương dất trích bệnh lâu chưa lành
Nẻo Tầm Dương vắng tanh âm nhạc
Suốt quanh năm đàn hát chẳng nghe
Bồn thành ẩm thấp nặng nề
Quanh nhà mọc những lau tre cỗi cằn
Từ sáng chiều nghe toàn âm lậu
Vượn hú sầu rướm máu quốc kêu
Sông xuân hoa sớm trăng chiều
Một thân. Một hũ. Một điều:ta say.
Rừng có nhạc thôn này cũng có
Tiếng líu lo làm khó tai ta
Đêm nay nghe khúc tì bà
Tâm hồn sảng khoái tưởng là nhạc tiên
Khoan từ giã đàn thêm khúc nữa
Tì Bà Hành soạn sửa vì nàng
Vâng lời. Do dự. Nhặt khoan
Tám dây rung động tiếng đàn thăng hoa
Nhạc sầu thảm không như khúc trước
Khách trong thuyền sướt mướt lệ sa
Lệ ai suối chảy chan hòa?
Giang Châu tư mã đẫm tà áo xanh.
Lời bàn của Con Cò:
Để dễ biểu hiện nguồn thơ của nguyên bản tôi luôn luôn dùng nguyên thể thơ để dịch. Nhưng với bài này (và vài bài nữa như bài Trường Hận Ca), nếu dùng nguyên thể thất ngôn trường thiên thì rất khó mô tả cái réo rắt của tiếng đàn và nỗi lòng thầm kín của người trong cuộc. Thể song thất lục bát là thể lý tưởng để mô tả ngững khó khăn đó. Chỉ có một khó khăn nho nhỏ: tuy câu bát cho thêm một chữ (so với câu thất của nguyên bản), nhưng câu lục lại ít bớt một chữ. Tôi đã hết sức cố gắng để khắc phục trở ngại đó. Tỷ dụ câu “Thập tam học đắc tì bà thanh” nghĩa là mười ba tuổi đã học được trọn vẹn nghệ thuật tấu tiếng đàn tì bà. Tôi đã diễn tả ý đó̀ trong sáu chữ: Mười ba tuổi thạo tì bà. Một tiền bối lão thành đã dịch là: “Học đàn từ thuở mười ba”. Câu của ông phạm hai lỗi: 1/ dịch sai. Nghệ sĩ này đã học thành thạo (đắc) ở tuổi mười ba chứ không phải bắt đầu học ở tuổi đó. 2/ thiếu ý (không specific), cô học đàn tì bà chứ không học thứ đàn nào khác.
Tôi đã tuyệt đối tránh được lỗi ngây ngô (giống như chữ mùi trong câu “Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh) của vị tiền bối lão thành đó. Thỉnh thoảng tôi cũng phạm vài lỗi ép vận nhưng không phạm lỗi lạc vận (rất kỵ trong song thất lục bát hoặc lục bát).
Sau đây là dăm tiểu xảo đã được tôi xử dụng để tô điểm cho bài dịch:
1/ Tám dây móng phẩy mạnh vào (rất gợi hình lúc nghệ nhân đánh cả 8 dây để chấm dứt bài nhạc)
Tiếng như xé lụa. Dạt dào. Đàn xong.(dùng 3 dấu chấm, ngắt câu bát thành ba câu nhỏ để diễn đạt những biến chuyển dồn dập mà tác giả đưa ra trong một câu thất)
2/ Vâng lời. Do dự. Nhặt khoan (cùng một dụng ý như trên)
3/ Vượn hú sầu rướm máu cuốc kêu. (dịch trọn vẹn được nỗi cô đơn của Bạch Cư Dị lúc bị biếm)
4/ Móng đàn cài lược dây tơ (động tác lúc nghệ nhân ngừng chơi)
Tuy nhiên, cũng có một vài khuyết điểm khó tránh: dịch một bài gần một trăm câu mà trước đó đã có cả chục danh nhân dịch thì khó mà tránh được dăm chỗ giống nhau.. Xin được thông cảm.
Bs Hoàng Xuân Thảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét