Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2014

Trà



      Người Việt có thói quen gọi trà là trà Tàu, dầu nay trà đều trồng tại xứ mình rất ngon, dư uống và còn xuất khẩu nữa.
      Ở Bắc thì có trà Bắc Thái, Trung có trà Mai Hạc, Nam có trà Blao (Bảo Lộc) nổi tiếng là ngon.
     Uống trà là thú ăn chơi tao nhã như cái thú hút thuốc lào, chơi cây kiểng mà đa phần dành cho đấng nam nhi!
- Làm trai biết đánh tổ tổ tôm
Uống trà liên-tửu ngâm Nôm Thúy Kiều
- Uống nước trà Tàu
      Ngồi ghế trường kỷ
      Trà có nguồn gốc bên Tàu theo ông Phạm Đình Hổ (1768-1840) trong “Vũ Trung Tùy Bút” thì vào thế kỷ 18 trà Tàu rất quí chỉ có những người thế tộc mới uống trà Tàu. Vì vậy cho nên người uống trà tới nay vẫn giữ phong cách tao nhã như kiểu thế tộc quý phái ngày xưa. Thế mới có câu:
-Trà Tiên rượu Thánh
- Trà lầu, tửu quán
      Trà từ bên Tàu qua bên ta, từ Bắc vào Trung đến miệt vườn Lục Tỉnh đã có nhiều biến đổi trong cung cách uống, cách pha chế.
      Nước trà ai cũng biết là nước pha với trà.
      Nhưng nước pha trà phải nấu sôi mới cho ta đầy đủ cái hương vị của trà.
      Nước thì phải là nước mưa, chớ nước sông, nước giếng có tạp chất, có phèn ... sẽ làm mất mùi trà. Hồi xưa ông bà mình ở miệt vườn, nấu nước pha trà bằng cài siêu, làm bằng đất nung. Cái siêu còn dùng để sắc thuốc Bắc, thuốc Nam rất gần gũi với các bà, các cô.
      Nước nấu bằng siêu, trước khi sôi có phát ra tiếng kêu gọi là “kêu siêu” như báo trước là nước sắp sôi. Thuở xưa, dùng rơm, củi để nấu bếp, nên có rất nhiều khói. Nấu nước pha trà phải biết ý chớ không nước bị “hôi khói”.
Trà vào Việt Nam tạo ra phong cách uống trà Việt khác người Tàu mà có người gọi là “trà đạo Việt”. Cái đạo trà Việt thể hiện qua cách pha trà, rót trà, dụng cụ uống trà đến khung cảnh uống trà...

     Thật là lắm chuyện quá!
     Theo sách vở nói rằng Chúa Trịnh Sâm là sư tổ trong nghệ thuật uống trà, sau này khi nhà Nguyễn đóng đô ở Huế tạo ra hệ phái uống trà riêng cho đất Thần Kinh.
      Xưa, dụng cụ uống trà, quí hiếm, đều sản xuất bên Tàu, nhưng nên nhớ là các kiểu dáng đó không có lưu dùng ở xứ Tàu.

      Dụng cụ uống trà của ta xinh đẹp, nhỏ nhắn do các sứ thần của mình đi sứ sang Tàu đặt các nghệ nhân bên đó làm. Rồi sau này, các nhà buôn Tàu bắt chước sản xuất ra, đem qua nước ta bán, mà dân gian quen gọi đó là “đồ sứ” ( đồ do sứ thần mang về).
      Các bộ tách pha trà, bộ ly, nhạo uống rượu của ta sau này sản xuất ở trong nước cũng lấy từ kiểu dáng ngày xưa do các sứ giả của ta mang về.
      Uống trà một mình gọi là độc ẩm, có hai người thì dùng bình 2 chén gọi là đối ẩm, nhiều nữa thì dùng bộ trà nhiều chén gọi là quần ẩm.

      Trước khi pha trà phải dùng nước sôi trán bình và chén cho nóng.
      Lấy mấy ngón tay, bóc một nhúm trà mà số lượng vừa phải, theo thói quen và theo nhu cầu cần cho bao nhiêu khách. Bỏ nhúm trà vào lồng bàn tay kia, săm soi nhìn các cánh trà; đoạn cho vào bình và châm nước sôi vào. Nhớ chắt bỏ nước ngay mà trong nghề gọi là rửa trà.
      Trà đã rửa, bình đã ấm, sẵn sàng để pha trà, khách và chủ ngồi trò chuyện chờ cho nước “ra trà”.
Trà rót ra tách, phải chia đều theo vòng kim đồng rồi ngược lại, hết hai vòng là vừa hết nước nhất, để sao cho tách trà nào cũng có cùng một độ đậm như nhau.
      Nếu xài chén tống (chén lớn) thì rót ra chén tống rồi mới chia ra chén quân (chén nhỏ)
Bên chén trà, chủ khách có bao nhiêu điều để nói, để kể nhau nghe, thật vô cùng tâm đắc và ý nhị làm sao.

     Cái cung cách uống trà nay không quá phức tạp như người xưa, nhưng vẫn còn giữ được cái gì tinh tế, tao nhã, mang nét văn hóa riêng của người mình.
      Uống trà lâu ngày phải ghiền, bởi lẽ cái hương vị trà rất độc đáo: Chát, đắng, ngọt, dịu dàng, ghiền lúc nào mà ta không biết.
      Trà cho ta vị đắng, hơi chát, nuốt vào để lại một chút vị ngọt nơi cổ họng. Đắng –chát –ngọt sẽ tan mau, nên người uống trà phải uống tiếp chén thứ hai rồi chén thứ ba mới hưởng hết được cái dư vị ngon của trà.
      Pha trà đến ba lần là đã lấy hết hương vị trà rồi. Do đó người xưa rót trà mời khách hoặc rót để cúng chỉ rót 3 lần mà thôi, gọi là “trà tam-rượu tứ”.
      Sau này trà còn được ướp bông ngâu, bông sứ, bông sói và ngon nhứt là trà ướp bông sen. Có mấy loại trà ướp mà người Việt mình ưa chuộng tới nay là trà Long Tỉnh, trà Thiết Quan Am, trà Chính Thái.

      Trà nhìn chung có 3 loại tùy theo cách chế biến mà ra:
      Trà Xanh là trà đã ép bỏ chất tinh dầu rồi đem sấy khô như trà Long Tỉnh; còn trà Ô Long là loại cho ủ lên men bán phần có mùi thơm như loại Thiết Quan Âm; riêng trà Đen (Hồng Trà) là loại chế cho lên men toàn phần, nước màu đỏ, người Âu Mỹ rất ưa thích. 

      Riêng ở miệt vườn, ngoài lối uống trà cầu kỳ sang trọng như ở Bắc, ở Trung còn có một mãn uống trà dân dã, bình dân.
      Cái bình uống trà ở miệt vườn xưa rất bự, chứa hơn một lít nước, có tráng men và vẽ hoa văn, hình bát tiên. Cho vào bình nguyên một gói trà, châm hết một siêu nước thì vừa đầy cái bình. Bình này người ta gọi là cái “bình tích” trà. Độc đáo hơn nữa là bình tích trà được đặt vào trọn trong cái vỏ dừa khô, để giữ nóng lâu.
      Khởi đầu cái vỏ trà bằng trấu rồi biến thành cái vỏ bằng trái dừa, mới thấy hết cái cách sáng tạo của người miệt quê.




      Các ông bà già xưa còn có thói quen uống trà bằng chén kiểu, vừa húp vừa uống rất điệu nghệ. Trà nguội thì quí cụ lại đổ hết ra cái tô kiểu lớn cả nước lẫn xác trà để giải khát suốt ngày.
Ở quê có thói quen uống trà vào buổi sáng sớm, như nay ta uống cà phê sáng vậy. Uống xong bình trà thì mặt trời vừa ló dạng bắt đầu đi ruộng.
      Uống trà đối với người miệt quê ngoài là thú vui, còn làm dễ tiêu hóa, điều hòa khí huyết, có ích cho sức khỏe nữa.
      Nhiều người còn rang đậu, gạo, hột keo để nấu nước uống thay trà, vừa thơm vừa bổ dưỡng, mát gan nhứt là vào mùa hè. Cái tục lệ uống nước gạo rang, đậu rang tới nay vẫn còn vì bà con cho rằng uống nước đậu, gạo rang “tốt lắm” nên khuyên con, khuyên cháu không nên bỏ.
 

      Còn một kiểu uống trà độc đáo nữa.
      Đó là kiểu uống trà với cá khô.
     Nhiều người nghe phải “giựt mình” vì khô làm sao uống trà cho được. Trà phải uống với bánh ngọt, kẹo đậu phộng hoặc tệ lắm phải với đường tán, đường thẻ chớ!
      Này nhé!
      Về Tân An, vô trong sâu miệt Đồng Tháp, bạn sẽ được mời uống trà với khô.
     Vừa đặt chân vô nhà, chủ kéo bạn ngồi xuống bộ ghế trường kỷ, bảo mấy xấp nhỏ nấu trà, đãi khách phương xa. Kèm theo bình tích trà tổ bố bự là dĩa khô cá bống trứng ngào đường.
Con cá bống trứng nhỏ bằng đầu mút đủa, vàng óng và lóng lánh phơi cái bụng đầy trứng thấy mà thèm.
      Nhai con khô vừa mặn, vừa ngọt, vừa béo, dòn dòn nuốt xong, ngụm một tách nước trà ngon mới hiểu thế nào là uống trà với khô. Lúc đầu còn hơi ngán, làm vài con nữa bạn sẽ thấy ngon và bắt đầu “biết đã”, biết thích.
      Ngồi trong căn nhà ngói ba căn, hai chái, nền đất nghe mát rượi giữa trưa hè, bạn sẽ nghe gia chủ kể chuyện lai lịch cái kiểu uống trà kỳ cục của miệt này.


      Hồi đó – gia chủ say sưa kể - nhà có tiền nhưng ở tận Đồng Tháp này đâu có quán xá, chợ búa gì đâu, nên uống trà thường cầm tay bằng đường tán.
     Gặp khi hết đường phải uống “khan khan”, đâm ra buồn nên kiếm “đồ cầm tay” cho vui. Sẵn nhà có khô lấy nhai bậy cho đỡ buồn, rồi thành quen thấy ngon và ghiền tới nay là vậy đó.
      Nay dầu bánh trái không thiếu, chợ búa sát nhà mà nhiều người còn có thói quen uống trà với khô tạp, cá sặc, cá lóc.


      Từ cái bình tích trà, cái vỏ dừa, đến cách uống nước trà bằng con khô là những cái nét đẹp xưa của người dân miệt vườn.
     Trà là thức uống dùng để cúng của người mình. Có những lễ cúng không cần rượu, nhưng trà không thể thiếu. Ngày Tết, ngày giỗ ngoài cúng cơm hai buổi sáng chiều thì trà được dâng cúng vào buổi tối.
      Từ khi trà có mặt như là thức uống của ta, trà không phân biệt sang hèn, làm tri kỷ từ vua chúa đến thứ dân.
       Trà cũng hãnh diện có mặt trong bàn tròn, bàn vuông cùng anh hùng hào kiệt bàn chuyện nước, chuyện non.

      Trà ơi, còn nước là vinh hạnh,
      Cháy lưỡi, khô môi, thêm những ai.

Nam Sơn Trần Văn Chi  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét