Thứ Năm, 9 tháng 12, 2021

Tự Quân Chi Xuất Hĩ Kỳ 2 自君之出矣其二 - Trương Cửu Linh


Lời phi lộ:

Trương Cửu Linh 張九齡 (678-740) tự Tử Thọ 子壽, hiệu Bác Vật 博物, người Khúc Giang 曲江, Thiều Châu 韶州 (nay thuộc tỉnh Quảng Đông), đỗ tiến sĩ năm 707 đời Đường Trung Tông, được bổ làm Tả thập di. Trong năm Khai Nguyên đời Đường Huyền Tông làm đến chức Trung thư lệnh. Về sau, ông làm chức Thượng thư hữu thừa (đồng Tể Tướng cùng với Lý Lâm Phủ), rồi bị bãi chức vì không hợp với Tể tướng Lý Lâm Phủ và mếch lòng vua.

Nguyên Tác          Dịch âm

自君之出矣其二 Tự Quân Chi Xuất Hĩ Kỳ 2

自君之出矣         Tự quân chi xuất hĩ,
不復理殘機         Bất phục lý tàn ky (cơ)
思君如滿月         Tư quân như mãn nguyệt,
思君如滿月         Dạ dạ giảm quang huy. 
***
Dịch nghĩa

Từ Buổi Chàng Ra Đi kỳ 2

Từ lúc chàng ra đi,
Thiếp không buồn sửa cái khung cửi bị hỏng.
Thiếp nhớ chàng như vầng trăng tròn đầy kia…
…Cứ mỗi đêm lại giảm dần ánh sáng.

Dịch thơ

Từ Buổi Chàng Ra Đi Kỳ 2

Từ khi chàng xa thiếp,
Khung cửi không mó tay.
Mỗi đêm trăng mỗi khuyết,
Từ buổi trăng no đầy.

Con Cò
***
Trương Cửu Linh, tự Tử Thọ, sinh năm 673 tại Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông, đậu Tiến Sĩ năm 707, mất năm 740. Mới đầu, ông làm Tả thập di, đến thời Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông, ông làm đến Trung thư lệnh, tức Tể tướng. Không hiểu sao, ông bị xuống chức, làm Thượng thư hữu thừa, rồi bị cách chức vì bất hoà với Thừa tướng Lý Lâm Phủ và mất lòng vua... Ông đã cảnh giác Minh Hoàng về nguy cơ làm loạn của An Lộc Sơn, nhưng vua không nghe. Khi An nổi loạn năm 755, thì ông đã qua đời rồi.

Trương làm thơ không nhiều, nhưng hay và rất nổi tiếng, trong đó có 4 bài cùng tên là Tự Quân Chi Xuất Hĩ, tả nỗi nhớ mong của vợ khi chồng đi xa, và cùng bắt đầu bằng 5 chữ đó. Đây là bài số 2:

Tự Quân Chi Xuất Hĩ Kỳ Nhị.  自君之出矣其二

Tự quân chi xuất hĩ,                     自君之出矣,
Bất phục lý tàn ky (cơ)                不復理殘機。
Tư quân như nguyệt mãn,            思君如滿月,
Dạ dạ giảm quang huy.                夜夜減清輝。

Giải nghĩa:

Từ lúc chàng ra đi,
Thiếp không sửa khung cửi nát.
Nhớ chàng như ánh trăng đầy,
Đêm đêm bớt dần ánh sáng.

Thầy Trần Trọng San dịch:

Từ ngày chàng bước ra đi,
Không còn mó đến khung kia bấy chầy,
Nhớ chàng như bóng trăng đầy,
Đêm đêm ánh sáng vì ai bớt dần.

Bản dịch của Ngô Tất Tố:

Từ ngày chàng bước chân đi,
Cái khung dệt cửi chưa hề đụng tay,
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm.

Bản dịch của Trần Trọng Kim:

Từ ngày anh ở nhà đi,
Cái khung cửi cũ chẳng hề mó tay,
Nhớ anh như thể trăng đầy,
Mỗi đêm mỗi thấy sụt gầy vẻ thanh.

Cả 3 tác giả đều dịch 2 câu cuối giống nhau, nghĩa là nỗi nhớ mong của thiếu phụ như vừng trăng tròn, mỗi ngày mỗi giảm... Như vậy thì có cái gì không ổn. Lòng nhớ mong mà càng ngày càng giảm thì hỏng rồi. Trong bao nhiêu năm, tôi thắc mắc về 2 câu thơ này, cho đến một hôm, ngồi bàn luận về văn chương với gia phụ, và được cụ giải thích: thiếu phụ nhớ chồng, DUNG NHAN hao mòn dần dần như ánh trăng, mỗi ngày một tiều tụy ...

Không hiểu các bạn có thắc mắc như tôi? Và BS đã theo ý gia phụ để dịch cho hợp lý:

Từ anh cất bước lên đàng,
Chiếc khung cửi cũ chẳng màng nhúng tay,
Giờ em như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm thương nhớ, hao gầy dung nhan.

Bát Sách.
***

Từ Chàng Xa Vắng Đó

1-

Từ chàng xa vắng đó
Khung cửi chẳng lo toan
Nhớ chàng vầng trăng tỏ
Đêm đêm nhạt ánh vàng!

2-

Từ khi chàng bước lên đàng
Hỏng hư khung cửi sửa sang chẳng vày
Nhớ chàng vằng vặc trăng say
Đêm đêm vầng sáng hao gầy ánh soi!

Lộc Bắc
***
Tự Quân Chi Xuất Hĩ kỳ 2

Từ xa chàng thờ ơ canh cửi
Nỗi nhớ nhung tựa ánh trăng rằm
Tỏ ngời rồi cứ lu dần

Yên Nhiên
***
***

Từ lúc chàng xa thiếp,
Buông lơ chiếc cửi hư,
Nhớ người như nguyệt tỏ,
Mỗi đêm lại dần lu.

Mỹ Ngọc
Oct 7 2021
***
Nguyên Tác: Phiên Âm:

賦得自君之出矣 Phú Đắc Tự Quân Chi Xuất Hỹ

張九齡                 Trương Cửu Linh
自君之出矣         Tự quân chi xuất hỹ
不復理殘機          Bất phục lý tàn ky
思君如滿月          Tư quân như mãn nguyệt
夜夜減清輝          Dạ dạ giảm thanh huy
 

Mộc bản trong Ngự Định Toàn Đường Thi cũng giống mộc bản trong Khúc Giang Tập của Trương Cửu Linh

Bài đăng trong các sách:

- Khúc Giang Tập - Đường - Trương Cửu Linh 曲江集-唐-張九齡
- Đường Nhân Vạn Thủ Tuyệt Cú Tuyển - Tống - Hồng Toại 唐人萬首絕 句選-宋-洪遂
- Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代 詩選-明-曹學佺
- Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄-清-徐倬
- Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁

Là một bài thơ được nhiều người ưa thích và được Tản Đà, Ngô Tất Tố , Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Lê Nguyễn Lưu… dịch ra Việt ngữ, bài Phú Đắc Tự Quân Chi Xuất Hỹ không được Hoành Đường Thoái Sĩ Tôn Thù chọn trong Đường Thi Tam Bách Thủ. Thivien.net có đăng bài này như Kỳ 2 của bốn bài Tự Quân Chi Xuất Hỹ. Tuy nhiên không có tài liệu nào xác nhận 3 bài kia là thơ Đường. Có lẽ vì thế mà không thấy có thi sĩ Việt Nam tên tuổi nào dịch 3 bài này.
Danh Sách Thơ Của Trương Cửu Linh trong Toàn Đường Thi Khố có 193 bài thơ, bài số 192 là một bài tứ tuyệt có tựa Phú Đắc Tự Quân Chi Xuất Hỹ, không có bài nào khác cùng tựa.
Toàn Đường Thi có 29 bài thơ với tựa Tự Quân Chi Xuất Hỹ 自君之出矣, bài nào cũng xài câu thơ tự quân chi xuất hỹ trong câu 1. Trong 29 bài thơ này, chỉ có một bài tứ tuyệt duy nhất của Trương Cửu Linh với tựa là Phú Đắc Tự Quân Chi Xuất Hỹ.

Ghi chú:

Phú Đắc: bài thơ lấy ý hay câu của người xưa làm đề tài. Theo Hán Ngữ Đại Từ Điển, “phú đắc” là một thể thơ Đường luật có thêm những yêu cầu chặt chẽ hơn thơ luật. Ngoài niêm, vận, tiết tấu, bố cục, đối xứng… ý thơ phải giải thích, phát triển và phù hợp với đề bài. Trước kia khi lấy ý của người xưa làm tựa bài thơ, hai chữ “phú đắc” được thêm trước tựa. Ví dụ, vua Lương Nam thời Nam Triều có bài Phú Đắc Lan Trạch Đa Phương Thảo 赋得兰泽多芳草. Trong các bài thơ thi thời phong kiến, vì đề thi có sẵn, phần lớn là câu đối, thành ngữ hay ca dao, tục ngữ hay một câu thơ… nên trước tựa đều có thêm hai chữ “phú đắc”. Bài Thảo 草 của Bạch Cư Dị có cái tựa Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt 賦得古原草送别 có 2 câu: “Dã hỏa thiêu bất tận, Xuân phong xuy hựu sinh 野火燒不盡, 春風吹又生 Lửa dại đốt không tiệt, Gió Xuân lại phát sinh”. Xem thêm nghĩa trong bài Phú Đắc Thu Cúc Hữu Giai Sắc.

Tàn ky: khung cửi hư: một khung vải dệt chưa hoàn tất
Dạ dạ: mỗi đêm, đêm nào cũng vậy
Thanh huy: ánh sáng trong thanh

Dịch Nghĩa:

Thuở Chàng Ra Ði

Từ khi chàng ra đi, thiếp không còn mó đến khung cửi bị hư.
Nhớ chàng, như vầng trăng tròn đầy đêm đêm hao dần vành sáng.
Chồng đi chinh chiến xa nhà, không biết bao lâu rồi, nhưng chắc phải lâu rồi vì khung dệt hư nhưng không có người sửa chữa, vợ lâu ngày không lên máy dệt để hoàn tất mảnh vải có lẽ đã rách nát. Cảnh suy tàn, trống trải, cô đơn… phản ánh tâm trạng không ổn định của người phụ nữ. Nàng ngày đêm nhớ nhung chồng, dung nhan tiều tụy, giống như vầng trăng rằm đêm đêm khuyết dần, mất dần ánh sáng trong thanh.

Dịch Thơ:

Từ Thuở Chàng Ra Ði

Từ lúc chàng tòng quân
Khung cửi không đến gần
Nhớ chàng như trăng sáng
Đêm đêm lu mờ dần.

From The Time You Left Home by Zhang Jiuling

From the time you left home
I have not touched the loom
I miss you just like the full moon
Loosing its halo night after night.

Since from Home You Departed by Zhang Jiuling (678-740)

E'er since from home my lord departed,
I’ve left untouched my weaving loom.
Like the full moon, O I long for you,
Nightly it wanes while I waste in gloom.

Translated by Andrew W.F. Wong (Huang Hongfa)
***
Bài Cảm Tác:

Thoi đưa ngày tháng xa dần
Thiếp ngồi canh cửi bần thần ruột gan
Mới ngày nào tình mình an
Mấy Xuân đã lạnh, én đàn viễn chinh

Đồ Cóc
***
Góp ý: 

Theo một bài viết trong Baidu (自君之出矣(其他詩人作品 _百度百科 ), 自君之出矣 là một câu nói diễn tả nhiều loại tình cảm của người ở lại và đã được thi nhân qua nhiều thời đại dùng để làm thơ.

“自君之出矣”,自你離開以後。這句話包含了無數不同的情感,各個朝代都有名人曾用過此句。“ tự quân chi xuất hĩ”, tự nhĩ li khai dĩ hậu。giá cú thoại bao hàm liễu vô sổ bất đồng đích tình cảm, các cá triêu đại đô hữu danh nhân tằng dụng quá thử cú。

Trong link ở trên, bài viết liệt kê 14 bài thơ với câu đầu Tự quân chi xuất hĩ, bài thứ 4 là của Trương Cửu Linh (các trang tiếng Hán trên Baidu nói về Trương Cửu Linh chỉ cho một bài này với tựa đề Phú Đắc Tự Quân Chi Xuất Hĩ như anh Tâm viết) và không có bài nào giống 3 bài kia mà Thi Viện bảo là kỳ 1, 3 và 4 của Trương Cửu Linh.

Tôi cũng không tìm thấy bài thơ tiếng Hán nào có các câu thơ trong các bài đó.

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét