Tổng Quan Về Công Cuộc Nam Tiến Của Dân Tộc Việt Nam:
Theo truyền thuyết thì Việt Nam là một trong một trăm bộ tộc Việt (Bách Việt), sống rải rác từ bờ Nam sông Dương Tử đến tận vùng Thanh Nghệ Tỉnh của Trung Việt bây giờ. Như vậy nguồn gốc dân tộc và văn hóa của dân tộc Việt Nam không phải như lịch sử Trung Hoa thường bóp méo rằng Việt tộc là man di mọi rợ, là một nhóm thổ dân sống chen lẫn với Hán tộc. Những cuộc xung đột giữa Si Vưu với Hán tộc cho chúng ta thấy được đại bộ phận Bách Việt đã từng bị sức ép lớn từ một dân tộc vô cùng hiếu chiến đến nỗi trong số đó có những bộ tộc Việt phải cam chịu hòa nhập hay bị đồng hóa bởi Hán tộc, hoặc phải gia nhập vào dòng chính sinh hoạt của Trung Hoa với những cái tên Ngô, Sở, Việt, vân vân.
Trong tiến trình đồng hóa này của Trung Hoa, có nhiều dân tộc phải chịu cảnh xóa sổ như dân Đại Lý hay Nam Chiếu về phía Vân Nam, và dân tộc Kim về phía Bắc của bán đảo Triều Tiên. Trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước gần năm ngàn năm, tổ tiên chúng ta đã liên tục chống xâm lăng phương Bắc để giành lấy nền độc lập cho dân tộc, và dân tộc Việt Nam luôn bị áp lực từ phương Bắc, nên muốn sinh tồn Việt Nam không có con đường nào khác hơn là mở đất về phương Nam. Tiền nhân và cha anh chúng ta đã chiến đấu anh dũng và hàng hàng lớp lớp đã ngã gục nơi chiến trường để bảo vệ quê hương.
Theo cổ sử của cả Việt Nam lẫn Tàu thì nhiều thế kỷ trước Tây lịch, đất đai nội thuộc nhà Tần về miền cực Nam có Tượng Quận, giáp với vương quốc Phù Nam. Đối chiếu giữa các bản đồ cũ và mới, chúng ta thấy Tượng quận bao gồm cả vùng Bắc Việt và Trung Việt ngày nay. Lúc nầy Thục Phán An Dương Vương đã đánh bại Văn Lang để lập thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Loa Thành(1). Năm 214 trước Tây lịch, sau khi gồm thâu lục quốc, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư cất quân đi đánh các bộ tộc Bách Việt. Sau đó, Tần Thủy Hoàng lại chia đất Bách Việt và Âu Lạc ra làm 3 quận là Nam Hải, Quế Lâm và Tượng quận.
Đến đời Nhị Đế nhà Tần bắt đầu suy yếu, quan Úy Nam Hải là Nhâm Ngao muốn thôn tính các vùng lân cận để thành lập một quốc gia độc lập riêng cho chính mình, nhưng ý đồ chưa đạt thì Nhâm Ngao qua đời. Triệu Đà lên thay, lo chỉnh đốn quân sự nhằm chuẩn bị đánh Âu Lạc, và cuối cùng đánh bại được Thục Phán. Vì còn bận bịu nhiều việc trong nước nên Nhị Tần Đế bèn cắt ba quận và phong vương cho Triệu Đà. Năm 111 trước Tây lịch, đời Hán Vũ Đế, vua sai Phục Ba tướng quân Lộ Bát Đức và Dương Bộc đem quân sang đánh chiếm Nam Việt, rồi đổi làm Giao Chỉ Bộ, gồm 7 quận: Hợp Phố và Nam Hải, nay là Quảng Đông; Thương Ngô và Uất Lâm, nay là Quảng Tây; Giao Chỉ và Cửu Chân, nay là Bắc Việt và một số tỉnh miền Bắc Trung Việt; và quận Nhật Nam, nay là toàn miền Trung kéo dài đến đèo Cả.
Đặt quan Thứ Sử Giao Chỉ Bộ làm thống đốc tất cả. Đến năm 100 trước Tây lịch, Hán Vũ Đế lại đem đảo Hải Nam lập thêm 2 quận nữa nhập vào Giao Chỉ Bộ, đó là Châu Nhai và Đạm Nhĩ, nay là đảo Hải Nam. Bấy giờ Tượng Quân được chia làm 5 huyện, trong đó huyện Tượng Lâm ở về phía cực Nam. Như vậy theo thư tịch cổ Trung Hoa thì từ năm 111 trước Tây lịch, nước Tàu đã thôn tính những vùng xa hơn về phương Nam của lãnh thổ Giao Chỉ thời bấy giờ.
Theo Nam sử thì huyện Tượng Lâm chỉ bao gồm nước Lâm Ấp mà thôi. Có những giai đoạn vô cùng đen tối như cả ngàn năm nội thuộc Tàu, những tưởng đất đai mà tổ tiên để lại đã biến thành quận huyện của Tàu, những tưởng tên tuổi Việt Nam đã bị xóa đi trên bản đồ thế giới, nhưng dân tộc ta vẫn quật khởi và cuối cùng vào năm 939 Ngô Quyền đã giành lấy độc lập vĩnh viễn cho đất nước. Hướng về đất phương Nam, dân tộc Việt Nam đã được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu ẩm ướt và sức nóng gay gắt của vùng nhiệt đới, cũng như những khu rừng rậm hoang vu với sơn lam chướng khí đã là những nhân tố chính làm cản trở bước tiến của những toán quân hiếu chiến từ phương Bắc.
Khi nhà Ngô(2) giành lại độc lập năm 939, đất nước ta bắt đầu mở ra một kỷ nguyên độc lập với các triều đại nối tiếp về sau này như Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần... Lúc đó tổ tiên chúng ta còn ở quanh vùng Bắc Việt, khoảng từ Thanh Hóa trở ra. Không đầy nửa thế kỷ sau ngày Ngô Quyền tuyên bố độc lập, vua Lê Đại Hành của Đại Việt đã bắt đầu cuộc Nam tiến của dân tộc, ngài đã mang quân sang tấn công Chiêm Thành khi nước nầy muốn liên kết với Trung Hoa nhằm đánh phá Đại Việt, nhưng vua Lê Đại Hành chỉ chinh phạt chứ không chiếm đóng, vì thế sau khi hạ được kinh đô Đồng Dương(3), nhà vua cho chiếm lấy vàng bạc châu báu, rồi rút quân về nước. Tuy nhiên, không đầy 2 thế kỷ sau đó, Việt Nam đã tiến xuống Quảng Bình và Quảng Trị vào năm 1069.
Đến năm 1307, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân của xứ Champa và Chế Mân đã dâng hai châu Ô và Lý(4) lên nhà vua để làm lễ cưới. Như vậy hai lần mở cõi về phương Nam đầu tiên nầy cha ông chúng ta không phải tốn xương tốn máu do bởi các vua Chiêm tự nguyện hiến dâng. Sau đó, nhờ Chiêm Thành đất rộng người thưa và sự phòng ngự rất lỏng lẻo, nên các triều đại Việt Nam luôn tìm cách tiến dần về phương Nam khi có cơ hội. Năm 1471, Đại Việt tiến chiếm cửa Thị Nại, hạ thành Đồ Bàn, bắt vua Chiêm là Trà Toàn đem về Thăng Long và cho đổi tên vùng đất mới chiếm được ra làm phủ Hoài Nhơn, nay thuộc tỉnh Qui Nhơn. Như vậy đến năm 1471, người Việt chúng ta đã đặt chân tới đèo Cù Mông, nằm giữa hai tỉnh Bình Định và Phú Yên ngày nay.
Ngày nay, khi nhìn lại bức tranh mở cõi gian khổ về phương Nam của cha anh, chúng ta thấy bên cạnh những xương máu đổ ra, cha anh chúng ta cũng có những may mắn, những cơ hội thâu tóm đất đay không đổ máu. Và điều lạ lùng là hình như tiến trình Nam Tiến đã được sắp sẵn từ trước với những cái mốc lịch sử rất rõ rệt. Trong cuộc Nam Tiến, các chúa Nguyễn cũng áp dụng một phương cách giống như các triều đại trước đó. Thường thì trước tiên dân sơ tán gồm những người Việt nghèo khổ phiêu lưu về phía Nam tìm sinh lộ, rồi sau đó các chúa phái quân đến đóng đồn, lập đồn điền để khai phá đất đai, vừa lập thôn làng vừa phòng thủ vùng đất vừa mới khai phá được. Trong các đồn điền có đủ thành phần từ quân lính, đến dân tình nguyện và các tù phạm đều cùng sống chung khai phá đất hoang. Trong số nầy, thành phần tích cực nhất vẫn là thành phần dân nghèo, không có đất đai hoặc những người có óc phiêu lưu mạo hiểm vào vùng đất mới đầy hứa hẹn nầy.
Năm 1570, Theo lời đề nghị của Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông bổ nhiệm vào Nam cai quản vùng đất Thuận Quảng. Sau đó hai họ Trịnh Nguyễn liên tiếp kình chống nhau trên 200 năm. Trong cuộc nội chiến giữa hai họ Trịnh Nguyễn, để có được một hậu cứ vững vàng, các chúa Nguyễn của xứ Đàng Trong đã phải từng bước khéo léo qua giao thiệp và ngay cả chiến tranh nếu cần để tiến về phương Nam. Lúc đầu lãnh thổ xứ Đàng Trong chỉ gồm hai trấn Thuận Thành và Quảng Nam mà thôi, phía Bắc là lãnh thổ xứ Đàng Ngoài hay Bắc Hà của vua Lê và chúa Trịnh, phía Nam giáp với Chiêm Thành, và xa nữa về phương Nam là lãnh thổ của xứ Thủy Chân Lạp. Để có đủ tài nguyên và nhân lực chống lại chúa Trịnh ở phương Bắc, dầu chưa thu phục xong Chiêm Thành, các chúa Nguyễn Đàng Trong đã gấp rút tiến về phương Nam bằng cách nhảy vọt, vượt qua khỏi vùng biên địa phía Nam của Chiêm Thành để đi sâu vào phần đất Thủy Chân Lạp.
Năm 1578, chúa Tiên Nguyễn Hoàng cử Trương văn Chánh làm Trấn Biên Quan, chiêu tập lưu dân đến khẩn hoang vùng đất Ba Đài, nằm về phía Nam đèo Cù Mông khoảng 10 cây số. Đây là vùng đất xa xôi nhất của xứ Đàng Trong vào thời đó, nhưng khí hậu quá khắc nghiệt nên quan quân Đại Việt lại phải rút về phía Bắc đèo Cù Mông. Lúc nầy công cuộc Nam tiến phải dừng lại tại Qui Nhơn trong một thời gian khá lâu vì lúc nầy chúa Tiên Nguyễn Hoàng một mặt nơm nớp lo sợ sự đe dọa của chúa Trịnh từ phương Bắc, mặt khác vào năm 1593 nhân khi về Thăng Long để chúc mừng vua Lê Thế Tông hồi kinh sau khi Trịnh Tùng đánh đuổi được nhà Mạc thì ông lại bị Trịnh Tùng kềm giữ lại Bắc Hà cho đến năm 1600 nhân đi dẹp loạn ở Nam Định, ông cho thuyền xuôi thẳng về Nam. Chính vì thế mà người Việt phải dừng lại tại phía Bắc đèo Cù Mông đến gần 150 năm.
Về đến Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng quyết chí xây dựng một xứ Đàng Trong thật hùng mạnh để chống lại họ Trịnh, nên vào năm 1611 nhân vụ người Chiêm quấy phá vùng Cù Mông, Nguyễn Hoàng cho quân phủ Hoài Nhơn tiến đến núi Thạch Bi, chiếm Phú Yên. Chúa Nguyễn cho đặt thành phủ Phú Yên, trực thuộc dinh Quảng Nam. Phủ Phú Yên gồm 2 huyện Đồng Xuyên và Tuy Hòa. Tuy Hòa nằm về phía Nam đèo Cù Mông khoảng 50 cây số. Chúa Tiên lại bổ nhiệm Chủ Sự Văn Phong làm Lưu Thủ phủ Phú Yên. Lúc nầy Trấn Biên Quan Trương văn Chánh lại tiếp tục chiêu mộ lưu dân đến khai khẩn vùng đất thuộc phủ Phú Yên.
Năm 1629, phủ Phú Yên được đổi thành Dinh Trấn Biên. Và cuối cùng, cuộc Nam Tiến dưới thời các chúa Nguyễn, khởi đầu từ thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, đã được chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát hoàn thành khi tiến đến Mũi Cà Mau và thu phục trấn Hà Tiên.
Năm 1613 Nguyễn Hoàng từ trần, con là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay. Khi chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên lên ngôi thì Chiêm Thành đang có mối giao hảo rất tốt với người Bồ Đào Nha, bên cạnh đó các nước Âu châu luôn tìm cách gây hấn với xứ Đàng Trong(5). Chính vì vậy mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên thấy cần phải có mối hòa hảo với cả Chiêm Thành lẫn Chân Lạp, nên vào năm 1620, chúa Sãi gã con gái của mình là công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Chey Chetta II, và
sau đó vào năm 1631 (?) chúa lại gã luôn công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Chiêm là Pô Ro Mê, với kế hoạch rảnh tay về phương Nam để có đủ nhân lực chống đỡ với quân chúa Trịnh về phương Bắc. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Tần, nhân vụ vua Chiêm là Bà Thấm (Po Nraup) mang quân sang tấn công Phú Yên, chúa sai Cai Cơ Hùng Lộc tiến quân đánh chiếm các vùng đất còn lại về phía Nam của Chiêm Thành.
Năm 1653 quân chúa Nguyễn tiến đến Nha Trang và Phan Rang. Chúa cho đổi vùng đất mới chiếm được ra làm hai phủ Thái Khang(6) và Diên Ninh(7). Ba năm sau đó (1623), chúa Nguyễn Phúc Nguyên cử sứ thần sang Oudong mượn đất Prei Nokor và Kas Kobey(8) để thiết lập trạm thâu thuế. Năm 1648, trong cuộc chiến tranh lần thứ 4 với quân Trịnh ở phía Bắc, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) bắt được 30 ngàn tù binh, chúa bèn cho số tù binh nầy vào khai khẩn đất đai từ phủ Thăng Hoa(9) đến Phú Yên. Cứ 50 người thì cho làm thành một ấp, và số còn lại được đưa vào khai khẩn vùng đất Khánh Hòa(10). Như vậy tính đến năm 1653, biên giới phía nam của xứ Đàng Trong là sông Phan Rang(11). Chúa Nguyễn cho lấy đất từ Phú Yên đến sông Phan Rang để thành lập dinh Thái Khang, tức vùng Khánh Hòa-Nha Trang ngày nay. Dinh Thái Khang gồm 2 phủ Thái Khang và Diên Ninh. Năm 1658, quân đội xứ Đàng Trong tiến đến vùng Tam Phan(12) lập thành trấn Thuận Thành, rồi sau đó đổi lại làm phủ Bình Thuận.
Cùng năm 1658, Chân Lạp xin thần phục chúa Nguyễn(13). Tuy nhiên, cũng kể từ đó, xứ Đàng Trong ngày càng can thiệp sâu vào nội tình Chân Lạp. Tháng ba năm 1674(14), Chân Lạp có nội loạn, chúa Nguyễn Phúc Tần lại sai Cai Cơ Nguyễn Dương Lâm sang bình định, giúp đưa Nặc Thu lên làm vua và Nặc Nộn làm Phó Vương tại Prei Nokor.
Năm 1679, chúa Nguyễn chính thức cho nhóm quan quân lưu vong của nhà Minh bên Tàu khai khẩn vùng đất Đồng Nai. Quan Tổng Binh Long Môn là Dương Ngạn Địch cùng Phó Tướng Hoàng Tiến được chúa cho vào vùng Đại Phố Mỹ Tho. Trong khi đó, quan Tổng Binh các châu Cao, Lôi, Liêm Trần Thượng Xuyên cùng Phó Tướng Trần An Bình được chúa cho vào vùng Đông Phố, nhóm quân binh nầy định cư từ vùng cù lao Cù Châu và Bàn Lân(15) để khẩn hoang lập ấp. Chẳng bao lâu sau đó, cả vùng rừng rậm hoang vu tại Mỹ Tho và Đông Phố đã biến thành những khu phố phồn thịnh, buôn bán với thuyền buôn ngoại quốc như Trung Hoa, Nhật Bản, Mã Lai và ngay cả với người Âu châu nữa. Đến vào khoảng năm 1775 thì hai vùng Cù Lao Phố và Đại Phố Mỹ Tho đã biến thành những khu thị tứ sầm uất nhất của xứ Đàng Trong.
Năm 1693 nhân vụ vua Chiêm là Bà Tranh tấn công phủ Diên Ninh nên chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống Binh và Văn Chức Nguyễn Đình Quan làm Tham Mưu, đem quân chinh phạt. Năm 1694, Nguyễn Hữu Cảnh bắt được Bà Tranh và quân chúa Nguyễn tiến chiếm Phan Thiết. Mặc dầu chúa Nguyễn Phúc Chu vẫn để cho người Chiêm(16) cai trị phần đất còn lại của họ, nhưng lúc nầy vương quốc Chiêm Thành chỉ còn lại một vùng đất thật nhỏ hẹp thuộc phủ Bình Thuận. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Cai Cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Kinh Lược đất Đồng Nai(17), lấy đất Đồng Nai lập thành huyện Phước Long, đặt dinh Trấn Biên, và lấy xứ Sài Gòn lập thành huyện Tân Bình, đặt dinh Phiên Trấn. Đồng thời, chia đất Đông Phố ra làm dinh huyện để tiện việc cai trị. Ông lấy đất Đông Phú để lập ra huyện Phước Long, Biên Hòa lập ra dinh Trấn Biên, và đặt Sài Gòn là huyện Tân Bình. Sau đó đặt ra 2 dinh là Trấn Biên (Biên Hòa) và Trấn Phiên (Gia Định). Mỗi dinh đều có quân đội trấn đóng và đặt các quan Lưu Thủ, Cai Bạ, và Ký Lục cai trị. Hai dinh nầy thời đó đất đai ngàn dặm, nhưng dân số chỉ vào khoảng 4 vạn hộ dân. Chính vì vậy mà chúa Nguyễn cho chiêu mộ thêm dân xứ Ngũ Quảng vào Gia Định với nhiều dễ dãi và ưu tiên.
Cuộc Nam Tiến kể từ năm 1611 đến năm 1698 không gặp sự chống cự đáng kể nào. Dưới thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, binh lính vào trấn thủ đèo Cù Mông(18) được ca dao bình dân mô tả rất cảm động: “Tiếng ai than khóc nỉ non; là vợ chú lính trèo hòn Cù Mông.” Năm 1708, Mạc Cửu(19) dâng đất Hà Tiên, chúa Nguyễn chỉ nhận trên danh nghĩa, nhưng vẫn để cho dòng họ Mạc trấn giữ đất Hà Tiên.
Năm 1753, nhân cơ hội vua Chân Lạp là Nặc Ông Nguyên lấn hiếp người Côn Man, chúa Nguyễn bèn sai Nguyễn Cư Trinh vào dàn xếp và lãnh lệnh chúa Nguyễn ở lại tiếp tục khai khẩn đất hoang và lập khu dinh điền mới. Từ đó coi như phần lớn đất đai của xứ Thủy Chân Lạp đã nằm dưới sự kiểm soát của Việt Nam. Trong khi đó Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tứ tiếp tục khai khẩn những vùng Hà Tiên, Phú Quốc, Long Xuyên(20), Rạch Giá, Trấn Giang(21) và Trấn Di(22).
Năm 1757, vua nước Chân Lạp là Nặc Nguyên băng hà, người chú họ là Nặc Nhuận đem hai xứ Trà Vinh và Ba Thắc dâng cho chúa Nguyễn để được chúa chấp nhận cho lên ngôi vua. Nhưng ngay sau khi lên ngôi, Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh giết chết để đoạt ngôi, con của Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên cầu cứu với xứ Đàng Trong. Chúa Nguyễn sai Thống Suất Trương Phúc Du sang bình định Chân Lạp, bắt giết Nặc Hinh rồi đưa Nặc Tôn lên ngôi vua. Nặc Tôn bèn dâng luôn vùng đất còn lại của Thủy Chân Lạp là phủ Tầm Phong Long cho chúa Nguyễn. Sau đó Nặc Tôn còn cắt thêm 5 phủ Hương Úc, Cần Bột, Chân Sum, Sài Mạc và Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ đã hết lòng giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ cho đặt những vùng đất mới nầy vào hai đạo Kiên Giang và Long Xuyên, trực thuộc trấn Hà Tiên. Coi như đến năm 1757, mặc dầu trấn Hà Tiên vẫn còn được con cháu họ Mạc cai quản, nhưng trên danh nghĩa, lãnh thổ xứ Đàng Trong đã là một dãy đất bao la với một bờ biển dài hơn bờ biển Bắc Hà rất nhiều, chạy dài từ sông Linh Giang đến mũi Cà Mau, vòng lên Hà Tiên và tiến sâu hơn nữa về phía Kompong Som, ngày nay là Sihanoukville.
Đến năm 1780 thì Mạc Thiên Tứ chính thức dâng đất Hà Tiên(23). Đến đây coi như cuộc Nam tiến đến chót mũi Cà Mau và Hà Tiên đã hoàn tất. Rất may mắn cho dân tộc Việt Nam, vì sau khi cuộc Nam Tiến vừa kịp chấm dứt thì triều đại các chúa Nguyễn khủng hoảng và suy thoái trầm trọng, khiến nhân dân nhứt là nhân dân miền Trung phải đứng lên dựng cờ khởi nghĩa như phong trào Tây Sơn ở Qui Nhơn. Rồi Nguyễn Huệ đã đánh Nam dẹp Bắc, để cuối cùng chính vị hoàng đế áo vải nầy đã vẽ ra một bức tranh Việt Nam thống nhất trong tương lai, mặc dầu dưới thời Tây Sơn, Nguyễn Nhạc vẫn tự coi mình là vua của xứ Đàng Trong trong khi Nguyễn Huệ đã chính danh xưng đế trước khi kéo quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh. Rồi sau đó khi phong trào Tây Sơn chìm xuống sau cái chết của Đại Hoàng Đế Quang Trung thì Nguyễn Ánh có cơ hội thâu tóm toàn bộ đất nước từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau vào năm 1802, để rồi chỉ hơn nửa thế kỷ sau, đất nước phải rơi vào tay của thực dân Pháp.
Công Lao Của Các Chúa Nguyễn Đối Với Vùng Đất Nam Kỳ:
Nếu nói về cuộc Nam Tiến mà không kể đến công lao của Chúa Nguyễn Hoàng và các chúa nối nghiệp của ngài cũng như của các bậc khai quốc công thần sau này quả là một thiếu sót lớn. Các chúa Nguyễn, các bậc khai quốc công thần, cũng như những lưu dân đầu tiên đi mở cõi về phương Nam... là những người đã đi tiên phong trong việc bình định loạn lạc, hoạch định bám đất, khẩn hoang lập ấp, tổ chức làng xóm, đào sông, xẻ núi, mở đường, xây dựng phố xá, và bảo vệ sự an cư lạc nghiệp cho những người đến sau. Ngày nay trên khắp các vùng đất của miền Nam, đi đâu đến đâu chúng ta cũng đều thấy đền thờ của các vị khai quốc công thần như Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh, Lê văn Duyệt, Nguyễn văn Thoại, vân vân.
Tuy nhiên, trong phạm vi hạn hẹp của quyển sách này, chúng tôi chỉ nói phớt qua về các Chúa và chỉ nói nhiều đến những bậc có công lao trực tiếp với xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh mà thôi. Tổ tiên của dòng họ Nguyễn là Nguyễn Công Duẫn, người Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Duẫn đã theo Lê Lợi đánh dẹp quân Minh. Con là Nguyễn Đức Trung làm quan đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ dưới thời vua Lê Nhân Tông. Sau đó Đức Trung đã cùng với Nguyễn Xí dẹp tan nghịch đảng trong triều để đưa vua Lê Thánh Tông lên ngôi. Đến đời vua Lê Uy Mục, trên 200 người họ Nguyễn đang làm quan trong triều đều bị cách chức và đuổi về quê. Con của Nguyễn Đức Trung là Văn Lãng đang làm chức Thủy quân Vệ Chỉ Huy Sứ bèn tập hợp quân Thanh Hóa về triều hạ bệ Uy Mục và tôn Lê Tương Dực lên ngôi. Con của Văn Lãng là Nguyễn Hoằng Dũ làm Đô Đốc có công đánh dẹp giặc giã khắp nơi. Lúc nghe tin Trần Cảo nhơn cơ hội Trịnh Duy Sản sát hại vua Lê Tương Dực rồi kéo quân về kinh đô soán ngôi vua, Nguyễn Hoằng Dũ kéo binh về triều đánh dẹp. Sau đó triều đình trở nên rối rắm, vua Chiêu Tông mới 14 tuổi mà triều thần ai cũng muốn hùng cứ một phương, Nguyễn Hoằng Dũ thì kéo quân về trấn giữ Thanh Hóa. Khi Trịnh Tuy âm mưu phế bỏ Chiêu Tông để lập vua khác lên ngôi, vua Chiêu Tông triệu Hoằng Dũ về cứu giá, nhưng sau đó Hoằng Dũ mất, An Hưng Vương Mạc Đăng Dung và Trịnh Tuy bức hiếp vua Lê Chiêu Tông, gây thành một cuộc cướp ngôi từ tay vua Lê, chấm dứt triều đại nhà Hậu Lê (1428-1527), và lập nên nhà Mạc (15271593).
Năm 1527, nhiều triều thần nhà Lê không chịu phục tùng nhà Mạc, bỏ lên rừng núi thay tên đổi họ ở ẩn, có người bỏ trốn ra nước ngoài như Lào và Trung Hoa, có người nổi lên chống lại nhà Mạc. Sau khi Mạc Đăng Dung đã soán ngôi vua Lê, con của Nguyễn Hoằng Dũ là An Thành Hầu Nguyễn Kim(24), đang giữ chức Hữu Vệ Điện Tiền Tướng Quân của vua Lê, đưa gia đình và binh sĩ bản bộ qua Sầm Châu, nay là Sầm Nứa thuộc Ai Lao để tránh nạn và mưu cầu khôi phục nhà Lê.
Sau khi Nguyễn Kim chết vào năm 1545 thì nhà Hậu Lê lại rơi vào tình trạng khủng hoảng, quyền bính rơi vào tay của con rể ông là Trịnh Kiểm. Năm 1556, vua Lê Trung Tông băng hà, nhưng không có con trai nối ngôi nên Trịnh Kiểm có ý muốn soán ngôi nhà Lê. Tuy nhiên, Trịnh Kiểm vẫn còn e dè triều thần và dân chúng, nên cử Phùng Khắc Khoan bí mật ra Hải Dương hỏi mưu chước của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình chỉ nói: “Năm nay mất mùa vì lúa giống không tốt, mang thóc giống cũ mà gieo lại.” Trạng Trình còn sợ sứ giả chưa hiểu ý nên bảo tiểu đồng quét dọn bàn Phật để lễ Phật và bảo: “Giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản.” Sứ giả về báo lại, Trịnh Kiểm hiểu ý nên sai người đi tìm con cháu của vua Lê xưa để tôn lên làm vua, còn mình thì xưng chúa. Sau đó Trịnh Kiểm tìm được Lê Duy Bang tại vùng Thanh Hóa, cháu bốn đời của Lam Quốc Công Lê Trừ, anh của vua Lê Thái Tổ. Trịnh Kiểm bèn cho rước Lê Duy Bang về Tây Đô và tôn lên ngôi, hiệu là Lê Anh Tông (1557-1573).
Và để củng cố quyền bính Trịnh Kiểm bất chấp mọi hành động, ngay cả việc sát hại em vợ của mình là Lãng Quận Công Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng thấy anh mình bị hãm hại, bèn cáo bệnh xin xuôi về phương Nam để lánh nạn. Và từ câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân” mà Nguyễn Hoàng đã dựng nên cơ nghiệp cho dòng họ Nguyễn, cũng như góp phần không nhỏ trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Sau khi cho người vào vấn kế với Trạng Trình, Nguyễn Hoàng nhờ chị mình là Ngọc Bảo xin với Trịnh Kiểm cho về phương Nam làm Trấn Thủ Thuận Hóa. Một công hai việc, vừa rảnh tay vừa khỏi phải mang tiếng là sát hại thêm một người em vợ nữa nên Trịnh Kiểm bằng lòng ngay, vì đây là vùng đất mới chiếm lại được từ tay nhà Mạc vào năm 1554, nên một mặt lòng dân chưa hẳn đã phục tòng vua Lê và chúa Trịnh, mặt khác nhà Mạc luôn cho người khuấy động và phá rối với âm mưu chiếm lại vùng đất nầy. Ngoài ra, đất Thuận Quảng lại là vùng đất mới sáp nhập từ vương quốc Champa, với rừng núi hiểm trở, sơn lam chướng khí, nên Trịnh Kiểm tự nghĩ một khi Nguyễn Hoàng vào đây thì khó lòng có thể mang quân trở ra Tây Đô để tranh quyền với mình được. Như vậy, nếu vua Lê chấp thuận cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Quảng, thì chẳng những Trịnh Kiểm không sợ bị tranh quyền, mà còn có người tài giỏi trấn thủ vùng hiểm địa. Chính vì thế mà Trịnh Kiểm dâng biểu lên xin vua Lê cho Nguyễn Hoàng vào Nam. Vua Lê Anh Tông đồng ý cử Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào làm trấn thủ Thuận Hóa và được toàn quyền quyết định mọi việc tại địa phương(25).
Năm 1558, Nguyễn Hoàng từ giã chị mình để ra đi trấn thủ đất Thuận Hóa. Khi vào trấn thủ Thuận Quảng, mặt ngoài thì Nguyễn Hoàng có vẻ hòa hiếu với Trịnh Kiểm, nhưng bên trong thì Chúa Nguyễn tìm cách thu phục lòng người ở phương Nam và âm thầm gầy dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn. Nguyễn Hoàng đem toàn bộ gia quyến lên đường bất chấp cái lạnh giá rét của mùa đông. Nguyễn Hoàng rất khôn khéo trong việc cai trị ở phương Nam nhằm thu phục nhân tâm; ông rất chăm lo cho dân chúng, nên chẳng bao lâu sau đó, vùng Thuận Hóa đã trở nên trù phú thịnh vượng. Đồng thời để tránh sự nghi ngờ của Trịnh Kiểm và vua Lê, năm 1569, ông đã đích thân ra chầu vua Lê ở An Trường. Nhờ vậy mà ở phương Nam ông được lòng dân, còn trong triều ông được cả vua Lê và chúa Trịnh tin tưởng. Chính vì thế mà vào năm 1570, vua Lê Anh Tông lại cho Nguyễn Hoàng trấn thủ luôn vùng đất Quảng Nam(25), mỗi năm chỉ nộp thuế cho triều đình 400 cân bạc và 500 tấm lụa mà thôi. Nguyễn Hoàng là một vị chúa nhân từ, một vị tướng có tài thao lược, một nhà kinh tế và xã hội xuất chúng(26)... nên chẳng bao lâu sau đó, cả hai vùng Thuận-Quảng đều trở nên thái bình thịnh vượng, trong khi các vùng khác của Đại Việt vẫn còn quá nghèo nàn đói kém.
Khi Nguyễn Hoàng đến Thuận Hóa, Luân Quận Công Tống Phước Trị bèn đem hết sổ sách Thuận Hóa ra trao nạp và xin ở lại giúp ông trấn giữ phần đất này. Trấn Thuận Hóa thời ấy gồm có 2 phủ là Tiên Bình và Triệu Phong. Nguyễn Hoàng cho binh sĩ lui binh vào sâu và đóng lại tại Ái Tử. Tuy tình hình Thuận Hóa lúc ấy vô cùng phức tạp vì nhân dân tại đây chỉ có một số là chí thú chăm lo cày cấy, số còn lại thì một phần chỉ biết lo ăn chơi, phần khác lại nhận tiền bạc của nhà Mạc gây mất trật tự trị an trong vùng. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều tù biệt xứ, hoặc dư đảng của các nghịch đảng phiêu bạt về đây. Lại thêm quân sĩ phạm tội hay bất mãn với chúa Trịnh chạy vào dung thân.
Khi về bái kiến vua Lê Anh Tông vào năm 1569, ông được vua Lê cho giữ thêm chức tổng trấn Quảng Nam. Từ đó về sau ông được gọi là Tổng Trấn Tướng Quân. Đời Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, vùng đất Thuận Hóa và Quảng Nam chạy dài từ sông Linh Giang đến Hoài Nhân. Lúc nầy quyền uy của ông thật to lớn, nhưng ông càng tỏ ra nhân hậu với tướng sĩ và khoan dung với thần dân nhiều hơn. Tuy nhiên, về mặt chánh trị và quân sự thì ông là người mưu lược và có uy phong. Ông chỉ huy quân đội rất nghiêm minh, nhưng cai trị dân rất nhân hậu. Chính vì vậy mà hào kiệt bốn phương đều náo nức qui tụ về đây phò tá ông(27).
Tháng 2 năm Quí Dậu, 1573, vua Lê Trang Tông băng hà, Lê Thế Tông lên ngôi sai người vào Thuận Hóa sắc phong cho Nguyễn Hoàng chức Thái Phó, hàng năm nộp thuế 400 cân vàng và 500 tấn lúa. Năm 1593, khi xứ Đàng Ngoài đang chuẩn bị đánh dẹp dư đảng họ Mạc, Nguyễn Hoàng đã đem quân ra giúp Trịnh Tùng, đồng thời còn đem tiền bạc và lúa thóc ra giúp vua Lê chiếm lại Thăng Long. Sau khi dẹp xong dư đảng họ Mạc ông đem quân ra yết kiến vua Lê, vua Lê khen ngợi công lao trấn giữ đất Thuận Hóa của ông và phong cho ông làm Trung Quân Đô Đốc Phủ Tả Đô Đốc Chưởng Phủ Sự Thái Úy Đoan Quốc Công, nhưng vẫn để cho ông lãnh đạo Thuận Hóa và Quảng Nam như cũ. Sau đó, Nguyễn Hoàng phụng mệnh vua Lê mang quân đi đánh dẹp tàn quân nhà Mạc ở các vùng Hải Dương, Cao Bằng và Lạng Sơn. Nguyễn Hoàng từng lưu lại kinh đô đến 7 năm, trong thời gian đó, ông có công rất lớn trong việc hỗ trợ xa giá chúa Trịnh Tùng đi chinh phạt giặc giã tại các vùng Lạng Sơn, Hải Dương và Tuyên Quang.
Tuy nhiên, sau đó ông thấy Trịnh Tùng có ý muốn ám hại mình nên vào năm 1600, ông bỏ trốn về Thuận Hóa(28) trong lúc vua Lê Thế Tông băng hà. Mặc dầu có ý không trở ra Đông Đô nữa, nhưng để tỏ ra hòa hoãn, ông đã gả con gái mình là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, nhưng kể từ đó về sau không có một vị chúa Nguyễn nào còn tiếp tục ra Bắc để chầu vua Lê nữa; tuy nhiên, Nguyễn Hoàng luôn giữa quan hệ tốt với vua Lê bằng cách hàng năm vẫn nộp thuế má đầy đủ. Như vậy có thể nói kể từ năm 1600, Nguyễn Hoàng đã bắt đầu toàn tâm toàn ý quyết chí trở về Thuận Hóa để chăm lo khẩn hoang lập ấp, phát triển kinh tế và phúc lợi cho nhân dân để tăng cường tiềm lực quốc gia và để xây dựng một giang sơn cho riêng dòng họ Nguyễn ở phương Nam với đầy đủ mọi mặt, từ tổ chức hành chánh, đến sinh hoạt xã hội và phát triển kinh tế.
Nguyễn Hoàng là người mến mộ Phật giáo nên một loạt những ngôi chùa đã được xây dựng tại vùng Thuận Hóa. Dân chúng ngoài Bắc nghe tin về sự phồn thịnh ở phương Nam cũng dong buồm xuôi Nam theo về với Nguyễn Hoàng. Ngay cả một nhà thông thái và nhà sử học nổi tiếng đương thời của xứ Đàng Ngoài là Lê Quí Đôn cũng đã phải ca ngợi Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng trong ‘Phủ Biên Tạp Lục’ như sau: “Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ nghiêm minh, không ai dám lừa dối... chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, phép tắc công bằng, quân kỷ nghiêm minh, cấm kẻ hung bạo. Quân dân hai xứ Thuận-Quảng đều mến yêu kính phục.
Đoan Quận Công luôn thay đổi những phong tục xấu, ai ai cũng cảm ơn và mến đức. Trong chợ không có hai giá, trong dân gian không có trộm cướp, đêm ngủ không phải đóng cổng; thuyền buôn ngoại quốc tới buôn bán, việc giao dịch phân minh, ai củng cố gắng, toàn cõi nhân dân an cư lạc nghiệp. Dân chúng hàng năm ai cũng đều nộp thuế má đúng hạn kỳ để giúp việc quân, việc nước, nên triều đình cũng được nhờ.” Đất Thuận Hóa là một vùng đất hết sức đặc biệt, về phía Bắc có núi Hoành Sơn (đèo Ngang), trong khi về phía Nam có đèo Hải Vân, vừa cao vừa hiểm trở. Đây là hai bức vách kiên cố cho bước đầu khởi nghiệp của Nguyễn Hoàng.
Năm 1602, để củng cố thế lực dòng họ Nguyễn ở xứ Đàng Trong, Nguyễn Hoàng sai con là Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ Quảng Nam. Đến năm 1611, quân Nguyễn lại thu phục thêm vùng đất Phú Yên, rồi chia làm 2 huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa. Tính đến năm 1611 thì xứ Đàng Trong đã liền một dãy từ Quảng Trị đến Phú Yên. Như vậy sau khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng đặt nền hành chánh tại vùng Phú Yên thì nước Chiêm Thành chỉ còn lại một vùng lãnh thổ rất nhỏ tương ứng với ba tỉnh Khánh Hòa, Phan Rang và Phan Thiết ngày nay. Chúa Nguyễn Hoàng mất năm 1613, ở ngôi chúa 56 năm, thọ 89 tuổi. Sau này triều Nguyễn truy tôn ông là Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế.
Trước khi qua đời, chúa Nguyễn Hoàng đã triệu tập quần thần lại mà căn dặn: “Vì muốn dựng lên nghiệp lớn mà bấy lâu nay ta với các ông đã cùng nhau kham khổ. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ cho đến thành nghiệp.” Sau đó Nguyễn Hoàng kêu người con thứ 6 là Nguyễn Phước Nguyên lại mà căn dặn: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, anh em phải thương yêu nhau. Phải ráng mà giữ lời ta dặn. Đất Thuận Quảng phía bắc có Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển sẵn cá muối, thật đúng là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ sức gây dựng sự nghiệp muôn đời. Ví bằng yếu thế, thì cố giữ lấy đất đai mà chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta.” Đây quả là một bản tuyên ngôn muôn đời cho dòng họ Nguyễn. Và đây cũng chính là kim chỉ nam cho các chúa Nguyễn về sau nầy trong việc ứng phó với quân Trịnh ở phương Bắc: kiên quyết chống chọi với họ Trịnh đến kỳ cùng. Hai thế kỷ sau đó, dầu việc triệt tiêu họ Trịnh không trực tiếp do hậu duệ của ông, nhưng sự nghiệp giữ lấy đất đai và mở cõi về phương Nam quả là một công lao to lớn với đất nước và nhân dân Việt Nam.
Nhờ tài đức của chúa Tiên Nguyễn Hoàng nên xứ Thuận Quảng được thịnh vượng, dân chúng được ấm no, yên ổn và hạnh phúc; kinh tế phồn thịnh và phát triển; tàu buôn ngoại quốc tới lui tấp nập nên việc buôn bán với nước ngoài rất phát đạt. Dưới thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam gồm 5 phủ, 18 huyện, 3 châu, chạy dài từ Quảng Bình đến Bình Định ngày nay. Trấn Thuận Hóa gồm 2 phủ, 9 huyện, 3 châu: Phủ Tiên Bình gồm 3 huyện(29) và châu Bố Chính, tức châu Tiên Bình, sau đổi lại là Quảng Bình. Phủ Triệu Phong gồm 6 huyện(30) và 2 châu Thuận Bình và Sa Bồn. Trấn Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện: Phủ Thăng Hoa gồm 3 huyện(31), phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện(32), Phủ Hoài Nhân gồm 3 huyện(33).
Chúa Nguyễn Phước Nguyên Và Các Chúa Nguyễn Sau Nầy Với Kỷ Nguyên Mới Cho Xứ Đàng Trong:
Chúa Nguyễn Phước Nguyên(34) sanh năm Quí Hợi 1563, nghĩa là 5 năm sau ngày chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, ông là con trai thứ 6 của Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng. Sở dĩ con thứ 6 được lập lên ngôi chúa vì thời đó các con lớn đều mất, còn người thứ 5 tên là Hải thì đang bị lưu giữ làm con tin ở Bắc Hà. Trong số các con trai của Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, người con đầu là Hà, người thứ nhì là Hán, người thứ ba là Thành, thứ tư là Diễn, tất cả đều mất sớm. Năm 1603, ông được chúa Nguyễn Hoàng bổ nhiệm trấn thủ đất Quảng Nam(35).
Nhận biết được vị trí trọng yếu của Quảng Nam về các mặt kinh tế và chiến lược nên chúa Nguyễn Phước Nguyên đã mở rộng giao thương với nước ngoài qua việc buôn bán ở vùng phố cảng Hội An. Thời đó thuyền bè từ các nước như Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Hòa Lan và Bồ Đào Nha đến buôn bán tấp nập tại Hội An, nhất là Nhật Bản. Sau khi lên ngôi chúa vào năm 1613, chúa Nguyễn Phước Nguyên đã mở rộng thương cảng Hội An(36) thành một thương cảng chính của xứ Đàng trong, nơi mà tất cả những tàu bè ngoại quốc đều phải ghé lại đây trong giao thương với xứ Đàng Trong. Khi nối nghiệp cha lên ngôi chúa, Nguyễn Phước Nguyên đã tròn 50 tuổi, và là người có đầy đủ khả năng cũng như điều kiện để kế nghiệp cha mình.
Khi chúa Nguyễn Hoàng mất, vua Lê đã cử sứ giả vào thăm viếng và truy tặng Nguyễn Hoàng là Cẩn Nghi Công. Nhà vua cũng hạ chỉ phong cho Nguyễn Phước Nguyên làm Thái Bảo Thụy Quận Công. Khi chúa Nguyễn Phước Nguyên lên ngôi chúa, ông đã cho tu sửa thành lũy, đặt quan ải vỗ về dân chúng, nơi nơi đều vui phục. Thời bấy giờ dân chúng đều gọi chúa Phước Nguyên là chúa Phật. Cũng kể từ thời chúa Nguyễn Phước Nguyên, họ Nguyễn ở đàng trong xưng quốc tính là Nguyễn Phước. Thời Chúa Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), dầu ngài dự tính kế hoạch hòa hoãn với các lân quốc phương Nam như Chiêm Thành và Chân Lạp, nhưng đồng thời ngài cũng bắt đầu kế hoạch “Xâm chiếm không đổ máu” trên đất nước Chiêm Thành và Chân Lạp bằng cách cho lưu dân về khai khẩn và định cư tại các vùng xa xôi ở phương Nam như các vùng Kas Krobei và Prey Nokor, bây giờ là Sài Gòn-Chợ Lớn.
Về phía xứ Đàng Ngoài, có lẽ chúa Trịnh ngoài Bắc đã thấy được sự lớn mạnh của chánh quyền và quân đội xứ Đàng Trong nên năm 1619, Trịnh Tùng đã đem quân vào đánh chúa Nguyễn ở Thuận Quảng. Chúa Nguyễn Phước Nguyên đã đem quân chống trả quyết liệt, và cũng kể từ đó chúa Nguyễn không còn tiếp tục nộp thuế cho triều đình vua Lê nữa. Năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Tộ vua Lê Thần Tông, tức năm Canh Thân 1620 sau Tây Lịch, em của Nguyễn Phúc Nguyên là Văn Quận Công và Hữu Quận Công mật gởi tờ khải lên triều đình, đại ý nói “Phúc Nguyên phản bội triều đình, xin cho quan quân đến đánh, hai người ấy xin làm nội ứng.
Sau khi mọi việc yên ổn, hai người ấy xin chia nhau làm trấn thủ hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.” Chúa Trịnh phong cho Đăng Quận Công Nguyễn Khải làm Chinh Nam Đại Tướng Quân và sai đi đón Văn Quận Công và Hữu Quận Công để tiến đánh Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên biết rõ âm mưu nầy, bèn lùng bắt Văn Quận Công và Hữu Quận Công, rồi giết hết cả đồng đảng. Nguyễn Khải đến biển Nhựt Lệ nghe rõ sự tình bèn kéo quân trở về. Năm 1627, thu nạp Đào Duy Từ và phong cho chức Nha Nội Úy Nội Tán, tước Lộc Kê Hầu.
Đào Duy Từ cố vấn chúa Nguyễn Phước Nguyên trả sắc phong lại cho vua Lê và không nộp thuế cho họ Trịnh(37). Đào Duy Từ cũng giúp chúa Nguyễn đắp lũy Tường Dục, tức Lũy Thầy ở phía Bắc để phòng ngự sự xâm lăng của quân Trịnh. Ngoài ra, Đào Duy Từ còn giúp chúa Nguyễn trong việc tuyển chọn binh lính và lập sổ thu thuế một cách công bằng cho trăm họ. Nhờ vậy mà tiềm lực kinh tế của xứ Đàng Trong ngày càng lớn mạnh. Đến năm 1634, Đào Duy Từ bị bệnh nặng mà qua đời. Tuy chỉ giúp cho chúa Nguyễn có 8 năm, nhưng Đào Duy Từ đã giúp cho cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở phương Nam trở nên vững vàng và có qui củ hẳn hoi. Đào Duy Từ quả xứng đáng là một bậc đệ nhất khai quốc công thần của nhà Nguyễn.
Về phía Chân Lạp, từ giữa thế kỷ thứ 15 họ đã bị người Xiêm đánh phá và liên tục xâm lấn, nên năm 1434, triều đình Chân Lạp đã phải bỏ kinh đô Angkor mà dời về Nam Vang (Phnom Penh). Sau đó lại dời về La Bích (Lovek) vào năm 1528. Đến năm 1593, quân Xiêm lại triệt hạ thành La Bích và can thiệp mạnh mẽ vào nội tình Chân Lạp. Năm 1618, quốc vương Sanyopo (Saryopory) của Chân Lạp vì quá lệ thuộc vào Xiêm La nên đã bị quần thần bắt phải thoái vị, nhường ngôi cho con trai là Prea Chey Chetta II. Và ngay cả vị vua nầy trước khi lên ngôi vua vào năm 1618, cũng đã từng phải sang Xiêm làm con tin một thời gian dài. Sau khi lên ngôi, ông thấy cần phải dựa vào thế lực của chúa Nguyễn để đối đầu với quân Xiêm nên Miên vương Chey Chetta II quyết định dời đô về Oudong và cử người em tên Preah Outey làm Phó Vương.
Từ thời quốc vương Chey Chetta II, nước Chân Lạp nghiêng hẳn về phía Việt Nam. Chey Chetta II chẳng những xin thần phục Việt Nam mà còn xin cầu hôn với con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên gả hai nàng công nữ là Ngọc Khoa cho vua Chiêm Pô Romê và Ngọc Vạn cho Miên vương là Chey Chetta II, mở đầu cho một kỷ nguyên mới cho lịch sử mở đất về phương Nam của xứ Đàng Trong. Quyết định gả công nữ Ngọc Vạn cho Miên vương Chey Chetta II cũng là một trong những dự tính “tầm ăn dâu” về lâu về dài cho cuộc Nam Tiến về sau này. Cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn và Miên vương Chey Chetta II là cuộc hôn nhân ngoại giao có lợi cho cả hai bên.
Về phía chúa Nguyễn, sau khi gả công nữ Ngọc Vạn cho Miên vương, coi như rảnh tay về phía Nam để có thể dồn mọi nỗ lực đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Trong khi đó về phía Chân Lạp, họ rất cần có thế lực của chúa Nguyễn để đối đầu với thế lực xâm lược và can thiệp trắng trợn của Xiêm La từ hàng thế kỷ nay. Mà thật vậy, sau cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn và Miên vương Chey Chetta II, sự liên minh giữa Chân Lạp và xứ Đàng Trong ngày càng chặt chẽ hơn. Năm 1623, sau khi giúp Chân Lạp đánh thắng được quân Xiêm, một phái đoàn của triều đình Thuận Hóa đã đến Nam Vang, xin vua Chey Chetta II cho lập cơ quan thu thuế, cũng như đặt đồn binh tại đây lấy danh nghĩa giúp đỡ quốc vương Cao Miên giữ gìn trật tự và phòng khi có việc là kéo quân lên Nam Vang tiếp trợ ngay. Sứ bộ cũng xin phép Miên vương cho người Việt tự do vào cư ngụ trong Prey Nokor(38). Dĩ nhiên là tất cả những yêu cầu của sứ bộ Việt Nam đều được Miên vương chấp thuận.
Đây cũng chính nguyên nhân trực tiếp khiến nhiều lưu dân người Việt đổ xô vào làm ăn sinh sống ở vùng châu thổ sông Đồng Nai và sông Sài Gòn ngày càng đông hơn. Năm 1628, vua Chey Chetta II băng hà, triều đình Chân Lạp rối loạn, các vị hoàng tử con của các bà hoàng hậu người Miên và Lào lần lượt lên làm vua. Ponhea To làm vua từ năm 1629 đến 1630, Ponhea Nu làm vua từ năm 1630 đến 1640. Vào năm 1640, vua Ponhea Nu đột ngột băng hà, quan phụ chính Preah Outey(39) đưa con mình là Ang Non I lên làm vua (1640-1642). Năm 1642, hoàng tử Ponhea Chan (con của một bà hoàng hậu người Lào) liên kết với người Mã Lai, giết chết hoàng thúc Preah Outey và Ang Non I, rồi lên ngôi lấy hiệu là Nặc Ông Chân (1642-1659), và lấy Hồi giáo làm quốc giáo. Nặc Ong Chân đã thẳng tay đàn áp Phật giáo và những người Việt tại đây. Trước tình huống nầy, hoàng hậu Sam Đát, tức công nữ Ngọc Vạn, đưa hai người con trai về ẩn thân ở vùng Mô Xoài Bà Rịa. Như vậy, chỉ sau 5 năm kể từ ngày quốc vương Chey Chetta II cưới công nữ Ngọc Vạn, toàn vùng Bà Rịa, Biên Hòa (Kâmpéap Srekatrey), Chợ Lớn (Prey Nokor) và Bến Nghé tức Sài Gòn sau nầy (Kas Krobey) đã hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của người Việt.
Chúa Sãi mất năm 1635. Về sau này được triều đình nhà Nguyễn truy tôn là Hy Tông Hiến Văn Hoàng đế. Dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, mặc dầu xứ Đàng Trong và Thủy Chân Lạp vẫn còn bị ngăn cách bởi một lãnh địa nhỏ còn lại của Chiêm Thành (vùng Phan Rang và Phan Thiết), ngài cũng đã tuần tự biến các vùng đất của Thủy Chân Lạp từ Prey Nokor (Chợ Lớn), Kâmpéâp Srékatrey (Biên Hòa), và Kas Krobei (Bến Nghé sau nầy là Sài Gòn) dưới sự cai trị của người Việt Nam.
Phải thành thật mà nói, chúa Nguyễn Phước Nguyên là vị chúa duy nhất đã hy sinh hạnh phúc gia đình của chính mình vì quyền lợi của đất nước. Ông chẳng những gả hai cô con gái là các nàng công nữ Ngọc Khoa cho vua Chiêm Pô Romê và công nữ Ngọc Vạn cho Miên vương là Chey Chetta II, nhằm mở đầu cho một kỷ nguyên mới cho lịch sử mở đất về phương Nam của xứ Đàng Trong, mà ông còn gả một nàng công nữ nữa, không rõ tên, cho một thương nhân giàu có người Nhật tên Araki Sotaro, thuộc dòng dõi Samurai vào năm 1619, nhờ sự phóng khoáng và đối xử không phân biệt đó mà kể từ sau năm 1619, rất nhiều thương nhân Nhật Bản đã đến làm ăn buôn bán tại vùng phố cảng Hội An. Và cũng chính nhờ chánh sách phóng khoáng đó mà chẳng bao lâu sau khi Nguyễn Hoàng vào cát cứ xứ Đàng Trong, xứ nầy đã trở nên phồn thịnh như sự nhận xét của giáo sĩ Cristophoro Borri trong quyển “Xứ Đàng Trong Năm 1621”(40).
Bên cạnh đó, chúa Nguyễn Phước Nguyên đã vâng mệnh cha một cách tuyệt đối, chúa đã tìm đủ mọi cách để tách rời xứ Đàng Trong ra khỏi thế lực của xứ Đàng Ngoài. Nếu nhìn thoáng qua, chúng ta có thể kết luận là chúa Nguyễn Phước Nguyên đã hành động vì nghiệp lớn của dòng họ, nhưng nếu công tâm nhận xét thì chúng ta sẽ thấy ngoài cái nghiệp lớn của dòng họ, sự hành động của chúa Nguyễn Phước Nguyên thời đó còn nhiều nguyên nhân xa và gần khác nữa. Nên nhớ thời điểm mà chúa Nguyễn Hoàng tìm cách đi về phương Nam thì triều đình vua Lê đã đến hồi quá suy tàn, và chúa Trịnh coi như lấn lướt hết quyền hành của vua Lê, guồng máy hành chánh thì rập khuôn theo thời của các vị vua đầu đời nhà Hậu Lê, nên xã hội bị kềm hãm không phát triển... Chính vì thế mà sau khi thoát được về phương Nam lần sau cùng vào năm 1600, Nguyễn Hoàng đã quyết định củng cố và phát triển xứ Đàng Trong theo một xu hướng phóng khoáng và cởi mở hơn. Đến đời chúa Nguyễn Phước Nguyên, ông đã quyết định ly khai hẳn với triều đình xứ Đàng Ngoài bằng cách thứ nhất là vào năm 1620, nhân vụ quân chúa Trịnh tấn công miền Nam, chúa đã bỏ hẳn lệ nộp thuế cho triều đình nhà Lê; thứ nhì là bãi bỏ những định chế quân sự mà triều đình nhà lê đã đặt ra như Đô Ty, Thừa Ty, và Hiến Ty, vân vân. Đến năm 1630, chúa nguyễn Phước Nguyên càng dứt khoát hơn khi trả lại sắc chỉ của chúa Trịnh Tráng, cắt đứt hẳn mọi quan hệ với xứ Đàng Ngoài, và tự xưng là ‘An Nam Quốc Vương’ trong quan hệ với các nước khác trong vùng.
Chúa Nguyễn Phước Nguyên mất năm 1635, người con thứ hai là Nguyễn Phúc Lan lên nối ngôi chúa, lúc nầy ông được 35 tuổi, tục gọi là Chúa Thượng. Sau khi nghe tin Nguyễn Phước Lan được lên nối ngôi, trấn thủ Quảng Nam là Nguyễn Phước Anh nổi lên giàn quân tại cửa Đà Nẳng chống lại chúa Nguyễn, mong cướp ngôi chúa. Chúa Nguyễn Phước Lan đem quân đánh dẹp và bắt được Phước Anh (41).
Năm 1640, chúa chuẩn bị binh mã đánh ra miền Bắc và chiếm vùng phía Bắc Bố Chính, nhưng sau đó lại trả vùng Bố Chính về cho Bắc Hà. Năm 1642, chúa Nguyễn Phúc Lan cho xây dựng trường luyện tập thủy quân trong địa phận xã Hồng Phúc, đồng thời cho luyện tập cho quân đội xứ Đàng Trong bắn súng đại bác, nhằm chuẩn bị ứng phó với quân Trịnh từ Bắc vào. Năm 1643, chúa Trịnh sai trấn thủ Nghệ An là Tiến Quận Công Trịnh Đào đem bộ binh tiến đánh xứ Đàng Trong, đồng thời cho thủy binh tiến đánh cửa Nhật Lệ, nhưng bị quân của Nguyễn Phúc Tần đánh trả mãnh liệt. Phúc Tần bắt sống được tất cả thủy quân của chúa Trịnh, nghe tin Trịnh Đào bỏ chạy về Bắc. Năm 1648, quân Trịnh cất quân đánh xứ Đàng Trong, chúa Nguyễn Phước Lan trao binh quyền lại cho con trai là Nguyễn Phước Tần, hợp cùng với võ tướng Nguyễn Hữu Dật cầm quân đánh quân Trịnh. Nhiều trận đánh lớn đã xảy ra và quân Nguyễn đều thắng lớn, 3 tướng Trịnh bị bắt cùng với 3 vạn tàn quân. Tuy nhiên, cùng năm đó chúa Nguyễn Phúc Lan qua đời. Đời chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), vì phải chinh chiến với Bắc quân của chúa Trịnh nên suốt thời gian này chúa Nguyễn Phúc Lan không mở mang gì nhiều về phương Nam. Chúa ở ngôi được 13 năm, thọ 48 tuổi. Về sau triều đình nhà Nguyễn truy tôn ông là Thần Tôn Hiến Chiêu Hoàng Đế.
Đời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), tức Chúa Hiền Vương. Chúa Nguyễn Phúc Tần sanh năm 1620. Lúc đầu ông được phong làm Phó Tướng Dũng Lễ Hầu. Năm 1648, ông được phong làm Tiết Chế Chủ Quân, thay thế chúa Nguyễn Phúc Lan phá quân Trịnh ở sông Gianh. Khi chúa Nguyễn Phúc Lan mất ông mới 29 tuổi, triều thần tôn Nguyễn Phúc Tần lên ngôi chúa. Ông là người chăm lo việc nước, không chuộng việc yến tiệc vui chơi. Chúa luôn luyện tập binh sĩ và chuẩn bị khí giới đạn dược để về phía Bắc có thể chống chọi với quân Trịnh(42), đồng thời về phía Nam luôn lấn lướt Champa.
Năm 1653, vua Champa cất quân đánh Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan quân phản công và đánh đuổi Champa đến tận sông Phan Rang. Chúa cho đặt dinh Thái Khương, bây giờ thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1655 nhân khi chúa Trịnh cho quân vượt sông Gianh, chúa bèn sai Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến kéo quân ra đánh Bắc Hà, trấn thủ Nghệ An là Trịnh Đào thua chạy. Quân đội xứ Đàng Trong chiếm được 7 huyện ở Nghệ An, nằm về phía Nam sông Lam Giang(43).
Nhân dịp các chúa Nguyễn phải chinh chiến với quân Trịnh liên miên nên Nặc Ong Chân tiếp tục truy đuổi người Việt đến tận vùng Bà Rịa và Nam Bình Thuận.
Năm 1658, các hoàng thân thuộc phe cánh của Nặc Ông Nọn I phải chạy về vùng Mô Xoài cầu cứu với Hoàng Thái Hậu Sam Đát. Trước tình thế nầy, công nữ Ngọc Vạn, tức Hoàng Thái Hậu Sam Đát, buộc lòng phải yêu cầu cháu của mình là chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (Nguyễn Phúc Tần là cháu kêu công nữ Ngọc Vạn bằng cô) giúp đỡ. Tháng 10 năm 1658, chúa Hiền Vương sai Nguyễn Phúc Yến(44), trấn thủ Phú Yên, đem 3.000 quân vào đánh Cao Miên. Quân Chân Lạp thua to ngoài khơi Bà Rịa và trận Gò Bích. Theo sử Cao Miên ghi lại: “Một hạm đội quân Cao Miên chặn đánh quân Việt Nam, nhưng bị thua to, Nặc Ong Chân bị bắt nhốt vào cũi sắt đưa ra Quảng Bình và mất tại đó vào năm 1660.”(45)
Sau biến cố nầy, người dân Chân Lạp trong vùng Mô Xoài-Bà Rịa tự động bỏ đi về miền Tây, tức là các vùng Trà Vinh, Vĩnh Long, và Sóc Trăng ngày nay. Như vậy, kể từ sau năm 1658, toàn vùng Mô Xoài-Bà Rịa không còn người Khmer nào sinh sống lẫn lộn với người Việt nữa.
Cũng năm 1660, chúa Hiền Vương lập Battom Reachea làm Chánh Vương Chân Lạp, đóng đô ở Udong. Và Ang Non làm Nhị Vương và đóng đô ở Prey Nokor, tức vùng Sài Gòn-Chợ Lớn ngày nay. Từ đó Chân Lạp xin thần phục chúa Nguyễn như cũ. Sử Cao Miên đã chua xót ghi lại sự kiện nầy như sau: “Nhờ người Việt Nam mới được làm vua, quốc vương Battom Reachea ký hòa ước nhận triều cống chúa Nguyễn hàng năm. Cho người Việt làm chủ phần đất vừa khai hoang. Cho người Việt được định cư trong lãnh thổ Chân Lạp và hưởng quyền ngang hàng với người Miên.” Như vậy lần nầy công nữ Ngọc Vạn chính thức xác lập chủ quyền của người Việt Nam trên xứ Thủy Chân Lạp, đồng thời bà cũng giúp vương quốc Chân Lạp không bị rơi vào tay của nước Xiêm La đang bành trướng về phía Đông.
Năm 1672, Battom Reachea bị con rể giết chết, con trưởng của Battom Reachea là Ang Chey, mà sử Việt Nam gọi là Nặc Ong Đài, được quân Xiêm giúp sức giết chết anh rể để lên ngôi. Từ đó tân vương Nặc Ông Đài dựa thế quân Xiêm, luôn mang quân sang lấn ép vùng Đồng Nai.
Năm 1674, Nặc Ông Đài đưa quân Xiêm sang đánh Ang Non, phá các lũy Sài Gòn và Bích Đôi. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần bèn sai Cai Cơ Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái đem quân vào đánh chiếm Sài Gòn, rồi sau đó tiến quân lên Nam Vang. Nặc Ong Đài và quân Xiêm thua chạy. Sau đó Ong Đài bị triều đình Chân Lạp giết chết. Em của Nặc Ong Đài là Nặc Ong Thu lên nối ngôi, xin hàng quân chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bèn sai đưa Ong Thu, tên Khmer là Ang Saur, về Long Úc (Oudong) lên ngôi lấy hiệu là Chey Chetta IV. Trong khi đó Nặc Ong Nộn vẫn tiếp tục làm phó vương tại Prei Nokor.
Năm 1679, tức năm Khang Hy thứ 18, các cựu thần nhà Minh không phục nhà Thanh nên ào ạt chạy qua tỵ nạn bên Xứ Đàng Trong. Trong số nầy có quan Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên cùng Phó Tướng Trần An Bình, mang 3.000 binh lính và trên 50 chiến thuyền, được Chúa Hiền cho giữ nguyên quân hàm và chức tước để đến khẩn vùng đất Đồng Nai; và quan Tổng Binh Long Môn Dương Ngạn Địch cùng Phó Tướng Hoàng Tiến, cũng được Chúa Nguyễn cho giữ nguyên quân hàm và chức tước để đến khẩn vùng đất Mỹ Tho. Từ đó các nơi này trở nên phồn thịnh, phố xá mọc lên, buôn bán hưng vượng. Thuyền buôn của nhiều xứ đến giao thương tấp nập. Ngoài ra, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, nhiều kinh đào được khởi đào như kinh Trung Đan và kinh Mai Xá, nên việc dẫn thủy nhập điền rất tốt, thóc lúa được mùa.
Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đã đưa sắc chỉ sang Cao Miên bảo Nặc Thu để đất cho Dương Ngạn Địch khai khẩn. Nặc Ong Thu đã nhanh chóng chấp thuận đề nghị của chúa Hiền vì theo mối liên hệ gia tộc, ông chính là cháu nội của công nữ Ngọc Vạn. Về sau nầy, chính các di thần nhà Minh đã thay mặt chúa Nguyễn trong việc bảo vệ và phát triển vùng đất phương Nam, nhất là Mạc Cửu và con cháu tại vùng trấn Hà Tiên, và Trần Thượng Xuyên cùng con trai là Trần Đại Định trên vùng đất Biên Hòa.
Cũng chính nhờ các di thần nhà Minh mà uy danh các chúa Nguyễn ngày càng trở nên to lớn đối với vương quốc Chân Lạp. Họ được giữ nguyên quân hàm và chức tước như lúc còn ở bên Trung Hoa, chính vì thế mà họ đã hết lòng phò trợ các chúa Nguyễn trong việc bảo vệ bờ cõi. Bên cạnh đó, họ cũng xông pha nơi trận mạc giúp các chúa bảo vệ và mở rộng lãnh thổ.
Năm Đinh Mão 1687, chúa lâm bệnh nên gọi người con thứ hai là Hoằng Ân Hầu Nguyễn Phúc Trăn tới dạy bảo: “Ta bình sinh vào sanh ra tử để giữ nhà giữ nước. Mày nối ngôi phải sửa thêm nhân chính cho yên bờ cõi. Các quan văn võ đều do ta cất dùng, phải đem lòng tin yêu, cùng mưu mọi việc, đừng để cho bọn tiểu nhân lẻn vào.” Dạy xong, chúa mất(46), ở ngôi được 39 năm, thọ 68 tuổi.
Đời chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691), tức Chúa Nghĩa Vương(47). Ngay sau khi lên nối ngôi cha, chúa Nghĩa vương cho dời kinh đô về Phú Xuân để có khoảng cách với biên thùy phía Bắc với quân Trịnh, phòng khi bị tấn công bất ngờ. Năm 1688, phó tướng của Dương Ngạn Địch là Hoàng Tiến nổi lên giết chủ tướng, tự xưng là “Phấn Dũng Hổ Oai Tướng Quân”, thống lãnh toàn bộ quân sĩ Long Môn, đóng đồn ở vùng Định Tường, di quân sang đóng ở Nan Khê, nay là vùng Kiến Hòa(48). Những việc làm nầy của Hoàng Tiến đã khiến cho Nặc Ông Thu hiểu lầm rằng đây là ý của các chúa Nguyễn nên chẳng những bỏ lệ triều cống, mà còn chuẩn bị quân lính nhằm đánh phá lại triều đình nhà Nguyễn(49).
Tháng 11 năm 1688, chúa Nguyễn Phúc Trăn phái phó tướng trấn biên dinh Nha Trang là Vạn Long Hầu làm chức Thống binh, Thắng Long hầu và Tân lễ hầu làm chức Tả Hữu vệ tướng quân, chính dinh thủ hợp Văn phái hầu làm chức Tham mưu, và Hoàng Tiến làm tiên phong(50) xua quân đánh chiếm Nam Vang. Tuy nhiên, chúa vẫn được sự thần phục của nhị vương Nặc Nộn ở Prei Nokor. Đến tháng giêng năm 1690, chúa sai lão tướng Vạn Long đem quân đến Rạch Gầm dàn trận. Vạn Long dùng mưu bắt được Hoàng Tiến(51). Vua Cao Miên cả sợ bèn xin được triều cống như xưa(52).
Sau đó, vào tháng 8 năm 1690, chúa Nguyễn ra lệnh cho quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân. Nói chung, đời chúa Nguyễn Phúc Trăn vẫn giữ kế hoạch lưu dân về phương Nam, nhưng không có gì đáng nói. Quan hệ với Chân Lạp vẫn tốt đẹp. Chúa chỉ ở ngôi có 4 năm rồi băng hà vào năm 1691, thọ 43 tuổi(53).
Đời chúa Nguyễn Phúc Chu(54) (1691-1725). Sau khi chúa Nguyễn Phúc Trăn băng hà, người con cả là Nguyễn Phúc Chu lên nối ngôi. Đây là thời kỳ chiến tranh Trịnh Nguyễn tạm ngừng trên 30 năm, bờ cõi tạm yên ổn, nên chúa Nguyễn Phúc Chu có nhiều cơ hội mở đất về phương Nam hơn. Năm Giáp Thân (1692), khi vua Chiêm là Bà Tranh kéo sang nước ta cướp bóc, sau đó họp quân đắp lũy ở phủ Diên Ninh. Quan Trấn thủ dinh Bình Khang liệu chống không nổi phải báo về chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Chu bèn phong cho Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (có sách viết là Nguyễn Hữu Kỉnh) lãnh chức Tổng binh (Thống binh) cùng với Tham Mưu Nguyễn đình Quang cất quân đi đánh dẹp. Tháng giêng năm Quý Dậu (1693), Nguyễn hữu Cảnh đánh bại và bắt được Bà Tranh và tướng Chiêm là Kế Bà Tử. Chúa cho đổi đất Chiêm Thành ra làm trấn Thuận Thành(55). Năm Đinh Sửu 1697, chúa cho lấy đất Phan Rang và Phan Rí trở về phía Tây đặt phủ Bình Thuận, chia làm hai huyện An Phúc và Hòa Đa. Như vậy tính đến năm 1693 quân chúa Nguyễn tiến đến Phan Thiết, và đất Bình Thuận trở thành vùng Biên Trấn của xứ Đàng Trong.
Mặc dầu chưa đặt được nền móng trên vùng đất Thủy Chân Lạp, ngay từ sau khi chiếm được Phú Yên (1611), chúa Nguyễn Hoàng đã khuyến khích lưu dân Việt Nam đi về phương Nam khẩn hoang lập ấp. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu, chúa bắt đầu có kế sách đưa dân vào vùng Mô Xoài(56) và vùng Nông Nại(57) để khai phá đồn điền. Năm Đinh Sửu 1697, chúa cho lấy đất Phan Rang và Phan Rí trở về phía Tây đặt phủ Bình Thuận. Cùng năm đó, chúa Nguyễn lại cho phép các cựu thần của nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên vào khai khẩn vùng Đông Phố(58) và Đại Phố(59). Đồng thời với các di thần nhà Minh nầy, tại vùng Mang Khảm, nay là Hà Tiên, có một người Phước Kiến tên là Mạc Cửu cũng đến đây xin vua Chân Lạp cho phép khai khẩn hoang địa.
Năm 1698, Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh tuyên bố chủ quyền đất đai xứ Đàng Trong tại hai huyện An Phúc và Hòa Đa thuộc vùng biên trấn Bình Thuận. Cùng năm đó, chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn hữu Cảnh vào Nam làm Kinh Lược đất Chân Lạp và chia đất Đông Phố(60) ra làm dinh huyện để tiện việc cai trị. Ông lấy đất Đông Phú để lập ra huyện Phước Long, Biên Hòa lập ra dinh Trấn Biên, và đặt Sài Gòn là huyện Tân Bình. Sau đó đặt ra 2 dinh là Trấn Biên(61) và Trấn Phiên(62), lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng Dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng Dinh Phiên Trấn, lập xã Minh Hương... Lúc đó toàn bộ miền Nam có 40 ngàn hộ gia đình. Kể từ đó người Hoa khắp nơi đi lại buôn bán với người Nam rất sầm uất. Như vậy sau đúng 75 năm kể từ ngày chúa Nguyễn Phúc Nguyên gã công chúa Ngọc Vạn cho vua Miên là Chey Chetta II, vùng đất Mô Xoài-Bà Rịa-Nông Nại-Prey Nokor đã chính thức được ghi vài sổ địa bạ của xứ Đàng Trong.
Trong khi đang chiến tranh với Champa, chúa Nguyễn cũng bắt đầu đưa dân đến khai khẩn sâu trong nội địa vùng đất Thủy Chân Lạp. Năm 1699, quốc vương Chân Lạp là Nặc Ông Thu đem quân chống lại với quân đội của chúa Nguyễn, chúa bèn sai quan Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh đem quân lên tận Nam Vang để can thiệp và dàn xếp sự rối loạn trong triều đình Chân Lạp. Nặc Ông Thu bỏ chạy, con trai của Nặc Ông Nộn là Nặc Ông Yêm mở cửa thành xin hàng. Về sau, Nặc Ông Thu cũng trở về xin hàng, và xin được triều cống như trước. Sau đó Nguyễn Hữu Cảnh rút quân về nước vào khoảng tháng 4 năm 1700. Trên đường về ông cho quân sĩ theo dòng sông Tiền, trú đóng tại cù lao Cái Sao(63).
Một số binh sĩ phát bịnh dịch và chính ông cũng nhiễm bịnh và qua đời chỉ hai ngày sau khi ông rút khỏi vùng nầy. Khi quan Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh rút quân khỏi cù lao Cái Sao, một số binh sĩ bị bệnh và một số khác tình nguyện ở lại vùng nầy để khai khẩn đất đai lập nghiệp. Và theo đề nghị của quan Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trước khi ông qua đời, chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho thêm lưu dân đến khai thác vùng cù lao Ông Chưởng(64). Như vậy vùng đất nầy đã có lưu dân người Việt đến khai khẩn trước khi quốc vương Chân Lạp hiến cho triều đình xứ Đàng Trong. Về sau dân vùng nầy được gọi là người dân Hai Huyện, trực thuộc phủ Gia Định. Ít lâu sau, Nặc Ông Nộn mất, Chánh vương Nặc Ông Thu tiếp tục phong cho con trai của Nặc Ông Nộn là Nặc Ông Yêm làm quan trong triều. Sau đó Ông Thu nhường ngôi cho con trai là Nặc Ông Thâm.
Năm Ất Dậu 1705, Nặc Thu nhường ngôi lại cho con là Nặc Thâm, nhưng giữa Nặc Thâm(65) và Nặc Yêm có sự bất hòa, nên Nặc Yêm chạy về Gia Định cầu cứu Nguyễn Cửu Vân. Chúa sai Nguyễn Cửu Vân mang quân sang đánh Nam Vang, Nặc Thâm thua chạy sang Xiêm, Cửu Vân đưa Nặc Yêm về lên ngôi tại thành La Bích (Lovek). Sau khi kéo quân về đóng ở Vũng Gù, Nguyễn Cửu Vân quân lính hợp cùng lưu dân người Việt khai khẩn vùng đất Vũng Gù Tầm Bôn (Tân An ngày nay) và Lôi Lạp (Gò Công), nhưng chưa chính thức được Miên vương cho phép. Ông cho lập đồn binh và đào kinh cho rạch Vũng Gù ăn thông sang rạch Mỹ Tho, nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua sông Tiền.
Như vậy, trong khoảng 7 năm từ năm 1698 đến 1705, từ khi quan Thống Suất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, xứ Đàng Trong đã chính thức tuyên bố chủ quyền của mình trên phần đất Nam Kỳ với đầy đủ những thủ tục hành chánh mà chưa có dân tộc nào đã làm trước đây, như đặt địa danh, kiểm tra dân số và thiết lập bộ máy hành chánh cho đến ngày nay. Từ trước, Mạc Cửu(66) đã dâng đất Hà Tiên cho xứ Đàng Trong, nhưng chúa Nguyễn chỉ nhận trên danh nghĩa, trên thực tế vẫn để cho dòng họ Mạc trấn giữ đất Hà Tiên.
Mạc Cửu là người đầu tiên có công khai phá và phát triển phủ Sài Mạt của Chân Lạp, từ Chưng Rum, Linh Quỳnh, Cần Bột (Kampot), Sài Mạt, đến Hà Tiên chạy xuống Rạch Giá, xuống tận Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ, Long Xuyên và Châu Đốc. Tháng 8 năm Mậu Tý 1708, đời chúa Nguyễn Phúc Chu, Mạc Cửu cùng Trương Cầu, Lý Xá mang lễ vật đến kinh đô gặp chúa Nguyễn xin dâng đất Hà Tiên. Chúa phong cho Mạc Cửu làm Tổng Binh trấn Hà Tiên, một chức quan lớn của triều đình xứ Đàng Trong. Đến năm 1714, chúa Nguyễn chính thức sáp nhập vùng đất Mang Khảm vào xứ Đàng Trong, nhưng vẫn phong cho hai cha con Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích làm quan Đô Đốc cai trị vùng đất nầy.
Hồi nầy Hà Tiên trở thành một thương cảng quan trọng nhất của vùng nầy. Năm Giáp Ngọ 1714, Nặc Ông Thâm lại kéo quân Xiêm La về đánh chiếm thành La Bích và truy đuổi Nặc Ông Yêm. Ông Yêm cho người sang Gia Định cầu cứu. Quan Đô Đốc Phiên Trấn là Trần Thượng Xuyên được lệnh chúa Nguyễn phối hợp cùng phó tướng Biên Trấn Nguyễn Cửu Phú đem quân sang đánh. Quân Đại Việt bao vây Ông Thu và Ông Thâm trong thành La Bích. Sau cùng Ông Thu và Ông Thâm phải trốn sang Xiêm La, và Nặc Ông yêm được xứ Đàng Trong đưa lên ngôi vua Chân Lạp.
Năm 1725, Nguyễn Phúc Chu mất, chúa ở ngôi chúa được 34 năm, thọ 51 tuổi(67). Đời Nguyễn Phúc Trú (1725-1738)(68). Khi chúa Nguyễn Phúc Chu mất, ông lên nối ngôi lúc 30 tuổi. Dù không có gì đặc sắc, nhưng dưới thời chúa Phúc Trú có hai biến cố quan trọng: thứ nhất là vào năm 1731, Nặc Tha dâng đất Long Hor (Long Hồ) và Mesa (Mỹ Tho) cho Trần Đại Định, lập nên Dinh Long Hồ. Biến cố thứ nhì cũng xảy ra vào năm 1736, sau khi Mạc Cửu qua đời, Chúa Phúc Trú phong cho con cả của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ tiếp tục làm Tổng Trấn Hà Tiên. Đây là thời kỳ cực thịnh của vùng Hà Tiên về cả quân sự, kinh tế, lẫn văn học. Về quân sự, Thiên Tứ cho tuyển mộ binh sĩ tinh nhuệ, đắp thành lũy kiên cố; về kinh tế thì mở phố chợ và hải cảng buôn bán với thuyền bè nước ngoài; còn về văn học mở Chiêu Anh Các, mà hiện vẫn còn quyển “Hà Tiên Thập Vịnh.” Như vậy chỉ trong vòng 5 năm dưới thời chúa Phúc Chú mà tướng quân Trần Đại Định đã giúp đưa cả một vùng đất bao la bạt ngàn về sáp nhập với Việt Nam, và Mạc Thiên Tứ đã giúp chúa Nguyễn một cách đắc lực trong việc phòng thủ về phía cực Nam. Chúa Nguyễn Phúc Trú mất năm 1738, ở ngôi 13 năm, thọ 43 tuổi(69).
Đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)(70). Đây là lần đầu tiên, một vị chúa ở phương Nam xưng vương, cho đúc ấn Quốc Vương, và bố cáo cho toàn dân được rõ. Tuy nhiên, về mặt hành chánh vẫn còn dùng niên hiệu của Vua Lê.
Năm 1753, nhân cơ hội vua Chân Lạp là Nặc Ông Nguyên lấn hiếp người Côn Man, chúa Nguyễn bèn sai Thiện Chánh Hầu làm Thống suất và Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh làm Ký Lục, đem quân sang đánh Chân Lạp(71). Sau khi thắng trận, chúa Nguyễn bèn cử Nguyễn Cư Trinh tiếp tục ở lại miền Nam để chiêu mộ lưu dân khai khẩn đất hoang và lập khu dinh điền mới. Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho lập đạo Trường Đồn, gồm vùng Mỹ Tho và Cao Lãnh ngày nay. Từ đó coi như phần lớn đất đai của xứ Thủy Chân Lạp đã nằm dưới sự kiểm soát của Việt Nam. Trong khi đó Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tứ tiếp tục khai khẩn những vùng Hà Tiên(72).
Năm 1754, chúa cho xây dựng hàng loạt cung điện tại kinh đô Phú Xuân. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, kinh đô Phú Xuân đã trở thành một nơi văn vật và đô hội lớn của xứ Đàng Trong. Đây cũng chính là nơi mà chúa Nguyễn tiếp đón các quốc vương láng giềng mỗi khi họ đến thăm xứ Đàng Trong. Năm 1755, các ông Trịnh Hoài Đức, Ngô nhơn Tịnh và Lê quang Định cũng lập ra thi xã, thắp sáng ngọn đuốc văn hiến nơi góc trời cực Nam của tổ quốc.
Năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng đất Tầm Bôn và Lôi Lạp cho xứ Đàng Trong để chuộc tội(73).
Năm 1757, sau khi vua Nặc Nguyên bên Miên băng hà, một người chú họ tên Nặc Nhuận, vì muốn lên ngôi vua nên đem dâng hai xứ Preah Trapeang và Bassac(74) dâng lên Chúa Nguyễn để xin cầu phong, nay là các vùng này thuộc tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Sau đó, cùng năm 1757, hoàng tộc Chân Lạp rơi vào cảnh hỗn loạn, con Nặc Nguyên là Nặc Tôn xin Thiên Tích tâu với chúa Nguyễn cho mình lên ngôi. Sau khi Nặc Tôn lên ngôi, ông lại dâng luôn phần đất còn lại duy nhất của Chân Lạp tại miền Nam lên chúa Nguyễn, đó là vùng đất Tầm Phong Long, ngày nay là các vùng Sa Đéc, Cao Lãnh, Long Xuyên, Châu Đốc và một phần của Rạch Giá.
Như vậy, tính đến năm 1757, cả vùng đất Thủy Chân Lạp ngày trước đã hoàn toàn trực thuộc triều đình xứ Đàng Trong. Và chỉ trong vòng 137 năm (1620-1757), người Việt Nam đã nhảy vọt qua khỏi vương quốc Champa để tiến vào khai phá và hoàn tất công cuộc thiết lập bộ máy chánh quyền trên vùng đất Thủy Chân Lạp(75).
Khi những lưu dân Việt Nam đầu tiên đến đây thì nơi đây hãy còn là một khu hoang địa với rừng thiêng nước độc. Năm 1759, Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tích đưa về làm vua xứ Chân Lạp. Chúa Võ Vương sai Thiên Tích đưa Nặc Tôn về Nam Vang. Sau đó Nặc Tôn dâng thêm vùng Tầm Phong Long, ngày nay là các vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Tân Châu, Sa Đéc, Cao Lãnh, và một phần của Rạch Giá cho xứ Đàng Trong. Các vùng đất nầy đều được chúa Nguyễn cho trực thuộc quyền cai quản của quan Lưu Thủ dinh Long Hồ. Ngày đó quan Kinh Lược Nguyễn Cư Trinh cho lập đồn dọc theo sông Cửu Long, gần biên giới để bảo vệ an ninh cho cư dân miền Nam.
Vì công tử cả mất lúc còn nhỏ nên chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lập công tử thứ 9 tên là Hiệu làm thế tử, nhưng công tử Hiệu mất năm 1760, mà hoàng thân Dương, tức con của công tử Hiệu hãy còn quá nhỏ, nên chúa có ý muốn cho công tử Luân, tức là cha của vua Gia Long lên nối ngôi chúa. Khi Nguyễn Phúc Khoát mất vào năm 1765, Trương Phúc Loan phế bỏ Nguyễn Phúc Luân, lập Nguyễn Phúc Thuần, con thứ 16 của chúa Nguyễn Phúc Khoát, lên ngôi.
Hồi này triều đình Thuận Hóa đã quá rối ren, lại thêm áp lực nặng nề của quân Trịnh ở Bắc Hà, quân Tây Sơn ở Qui Nhơn, và quân Xiêm ở Hà Tiên, nên trong suốt thời gian ở ngôi chúa, Nguyễn Phúc Thuần chỉ lo chạy trốn để được thoát thân khỏi các cuộc truy kích của quân Trịnh và Tây Sơn mà thôi. Mặc dầu vào cuối thế kỷ thứ 18 thì thế lực của nhà Nguyễn đã suy tàn do sự lộng quyền của Trương Phúc Loan, nhưng dòng họ Mạc trên đất Hà Tiên vẫn một lòng trung thành với chúa.
Đến năm 1780, Mạc Thiên Tứ lại chính thức dâng đất Mang Khảm(76). Đến đây coi như cuộc Nam tiến đến chót mũi Cà Mau và Hà Tiên đã hoàn tất. Tuy nhiên, Đại Việt vẫn còn chia làm hai vùng: xứ Đàng Ngoài dưới sự cai trị của vua Lê và chúa Trịnh, xứ Đàng Trong dưới sự cai trị của chúa Nguyễn.
Sau năm 1757, công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam coi như hoàn tất. Dân tộc Việt Nam phải mất gần 700 năm mới lấy được toàn bộ vùng đất phía Nam, từ vùng duyên hải miền Trung đến tận Mũi Cà Mau(77). Lịch sử Nam tiến nhằm mở đất về phương Nam của dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với kế hoạch khẩn hoang đã có từ thời các vua Đinh, Lê, Lý, Trần... Ngay từ thời vua Lê Thánh Tôn (1460-1497), nhà vua đã nhìn thấy cảnh đất hẹp người đông của xứ Đại Việt, nên ngài đã cho thi hành kế sách thành lập những đồn điền nơi vùng biên trấn phương Nam. Chánh sách đồn điền của các vị vua thời nhà Lê đã đem đến những lợi ích thiết thực cho dân tộc Việt Nam, một là giữ được an ninh cho vùng biên thùy, hai là mở rộng bờ cõi một cách ôn hòa.
Chính vua Lê Thánh Tôn đã đặt ra chức quan Thu Ngự Kinh Lược Sứ đầu tiên với nhiệm vụ chiêu tập lưu dân, gồm những người tình nguyện và những tội nhân bị lưu đày biệt xứ, cũng như những người bỏ làng để trốn lính và thuế đều được cho vào nhóm lưu dân đi khẩn đất phương Nam. Chính những quan kinh lược thời nhà Lê đã âm thầm đưa lưu dân lấn sang đất Chiêm, thành lập những đồn điền do quân đội trấn giữ an ninh, đã đặt các vua Chiêm Thành trước việc đã rồi, nhưng vì thời đó quân đội Chiêm Thành quá yếu nên họ không làm gì được.
Tuy nhiên, mãi đến đời các chúa Nguyễn thì kế hoạch ấy mới được thực thi một cách rõ nét vì từ trước khi các chúa nhà Nguyễn thiết lập những đơn vị hành chánh trên miền đất Nam Kỳ thì đã có sẵn cư dân người Việt xiêu tán đến đây chung sống với những người Mạ, Stiêng, Môn, Khmer... Không biết họ đến đây từ bao giờ, nhưng có lẽ họ đã đến đây từ lâu lắm. Ban đầu số dân xiêu tán chỉ gồm những người bị tù lưu đày biệt xứ hay những người quá nghèo khổ mà bỏ xứ ra đi, nhưng rồi đến đời các chúa nhà Nguyễn số dân xiêu tán ngày càng tăng vì sinh hoạt trên những vùng đất Thuận Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định... ngày càng khó khăn. Trong số những cư dân xiêu tán mới này người ta thấy có cả những người thợ thủ công nghệ có tay nghề khá cao, những quân nhân đem toàn bộ gia đình vào định cư ở những vùng đất mới, và ngay cả những nông dân không chịu nổi dưới ách áp bức của quan lại địa phương vùng Thuận Hóa.
Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam không phải là một diễn tiến tình cờ, mà là một diễn tiến tất yếu và có kế hoạch hẳn hòi, nhất là từ khi Nguyễn Hoàng vào dung thân trong Thuận Hóa theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với hai câu sấm nổi tiếng: “Hoành Sơn nhất đái Vạn đại dung thân.”
Tóm lại, trong quá trình dựng nước và giữ nước, cha anh chúng ta đã hy sinh quá nhiều xương máu mới để lại cho chúng ta một dãy giang sơn gấm vóc như ngày hôm nay. Tuy nhiên, trong tiến trình Nam tiến, dân tộc Việt Nam đã gặp rất nhiều thuận lợi trong việc thu phục Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp. Biên giới phương Nam thời kỳ nhà Ngô thu hồi nền độc lập là vùng núi non tỉnh Thanh Hóa, đến năm 1069, vua Lê Đại Hành đã thu phục các vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình và phía Bắc Quảng Trị, đến năm 1306 Đại Việt làm chủ phần đất Quảng Nam và Quảng Ngãi, năm 1402 làm chủ Qui Nhơn, năm 1471 làm chủ Phú Yên, 1611 làm chủ Khánh Hòa, 1653 làm chủ Phan Rang, 1693 làm chủ Phan Thiết, và cuối cùng năm 1757, xác lập chủ quyền trên toàn cõi Nam Kỳ, nhưng chiếm được đất là một việc, còn giữ được bờ cõi đất đai và có dân lại là việc khác, bằng chứng là hai dân tộc Phù Nam và Chân Lạp đã không làm được chuyện nầy, ít nhất là tại vùng đất mà bây giờ chúng ta gọi là Nam Phần. Tuy nhiên, với chánh sách khôn khéo và mềm dẻo mà chỉ trong vòng chưa đầy một thế kỷ, các chúa tiền triều nhà Nguyễn đã thu phục toàn bộ đất Thủy Chân Lạp.
Người Việt Nam tiến về phương Nam rất chậm nhưng rất chắc chắn. Trong khi các vương quốc Phù Nam, Chiêm Thành, Lào và Chân Lạp chủ trương tiến đánh các lân quốc và cướp lấy tù binh về làm nô lệ; nhưng Việt Nam chưa bao giờ bắt giữ tù binh làm nô lệ, ngược lại nếu phải lâm chiến với các lân quốc thường thì họ thả hết tù binh sau chiến trận, mà họ chỉ giữ lấy đất đai để khai khẩn và trồng trọt. Người Việt Nam phát động cuộc Nam Tiến một cách rất ôn hòa, thường thì các lưu dân người Việt là những người đi tiên phong khai phá rồi sau đó binh lính mới tới để bảo vệ lưu dân của họ. Bên cạnh đó, các lưu dân Việt Nam thường là những người tự nguyện hoặc những tù phạm lưu xứ, hoặc là dân nghèo sơ tán sau các vụ thiên tai, hoặc ngay cả bọn cướp hết thời muốn hoàn lương, vân vân, nên sinh khí của lưu dân đi khẩn đất phương Nam rất cao. trong tiến trình mở cõi của Việt Nam.
Hình như tiến trình mở cõi của dân tộc Việt Nam vẫn còn đang âm ỉ ngay trên những vùng đất đang trực thuộc Cao Miên và Lào ngày nay vì tại đó cũng đang có những lưu dân người Việt sanh sống. Họ là những người bình dân sống rất âm thầm bên cạnh những cư dân bản địa, nhưng phải thành thật mà nói sức sống và sức chịu đựng của họ mãnh liệt hơn dân bản địa nhiều. Sức sống và sức chịu đựng của lưu dân Việt Nam mạnh mẽ đến độ dù họ phải sống chung với nhiều nhóm lưu dân hay dân bản địa khác như Lào, Miên, Tàu, Mạ, Stiêng, Cho Ro, vân vân, họ vẫn luôn giữ được cho người Việt Nam tại đây tính thuần nhất và không bị bất cứ dân tộc nào đồng hóa.
Sau nhiều thế kỷ trải qua nhiều triều đại, đến năm 1757, cuộc Nam Tiến coi như kết thúc, chủ quyền vùng Nam Kỳ ngày nay hoàn toàn thuộc về xứ Đàng Trong. Chúa Nguyễn Phúc Khoát mất năm 1765, ở ngôi 27 năm, thọ 52 tuổi. Về sau này đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần thì triều đình nhà nguyễn đã quá bệ rạc. Ngoài biên cương thì cây cột trụ Nguyễn Cư Trinh cũng vừa qua đời năm 1767, ngoài ra không còn tướng giỏi, trong triều thì Trương Phúc Loan lộng quyền, thay vì lập Hoàng Tôn Dương(78) hoặc Nguyễn Phúc Luân(79), thì Trương Phúc Loan lại lập Nguyễn Phúc Thuần(80) lên ngôi chúa lúc mới 12 tuổi, gây nên cảnh náo loạn trong triều và sinh linh đồ thán bên ngoài dân gian. Trải qua 9 đời chúa, đến đây nhà Nguyễn bị nạn quyền thần lấn lướt. Lợi dụng Nguyễn Phúc Thuần còn nhỏ, Trương Phúc Loan nắm hết các nguồn lợi chủ yếu của xứ Đàng Trong như thuế sản vật, cũng như các mỏ vàng ở Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân, vân vân. Chính vì vậy đã đưa đến cuộc khởi nghĩa của nhà Tây Sơn vào năm 1774. Nguyễn Nhạc đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa, thanh thế ngày càng lừng lẫy vì được nhiều người ủng hộ. Bên cạnh đó, quân Trịnh ngoài Bắc lại kéo vào đánh phá với khẩu hiệu tiễu trừ lộng thần Trương phúc Loan. Tháng 12 năm 1774, quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân và đặt quan lại cai trị vùng Thuận Hóa, trong số đó có Lê Quí Đôn (1776).
Rất may cho nhân dân và đất nước Việt Nam, vì vào thời điểm nầy công cuộc Nam Tiến coi như đã hoàn tất. Cũng kể từ thời điểm nầy, nhà Nguyễn chẳng những không góp được công lao gì nữa cho đất nước, mà ngược lại chỉ một bề dốc công dốc sức, ngay cả đến việc rước voi về dày mã tổ, để giữ cho bằng được chiếc ngai vàng cho dòng họ Nguyễn. Phải thành thật mà nói rằng, kể từ chúa Nguyễn Phúc Khoát trở về trước, nhà Nguyễn có công với đất nước bao nhiêu, đã bị các vua chúa nhà Nguyễn về sau nầy đánh mất bấy nhiêu. Quả là một bất hạnh cho đất nước!!!
Nguồn Lực Khởi Nghiệp Của Các Chúa Nguyễn:
Khi được vua Lê sắc phong cho vào trấn nhậm Thuận Hóa, chúa Tiên Nguyễn Hoàng cũng như những đời chúa về sau nầy biết rất rõ sản vật vùng Thuận Hóa chưa có gì, ruộng đất khô cằn, không thể nào vùng đất nầy có khả năng cung ứng được tiềm lực quân sự cho xứ Đàng Trong. Chính vì thế mà ngay từ buổi ban đầu, các chúa đã chủ trương mở cửa thị trường trong nước cho thương gia nước ngoài vào làm ăn và đẩy mạnh việc giao thương với ngoại quốc. Từ năm 1600 đến 1613, chúa Nguyễn Hoàng đã chủ trương lôi kéo tối đa các thương nhân Nhật Bản, Cao Miên, Trung Hoa, Phi Luật Tân, Ấn Độ, Hòa Lan, cũng như các thương nhân Âu châu khác vào làm ăn ở xứ Đàng Trong. Các phố Hội An và Bao Vinh(81) ra đời từ đó và nhanh chóng trở thành những thương cảng phồn thịnh có tầm cỡ quốc tế.
Những nơi nầy sớm trở thành những trung tâm vận chuyển hàng hóa từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á và ngược lại. Năm 1613, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho phép các thương nhân Hòa Lan mở thương điếm tại Hội An. Sau đó các chúa còn gửi thơ mời các thương nhân xứ khác đến đây làm ăn. Riêng tại Thanh Hà (Huế), đích thân các chúa tiếp đón tàu bè ghé lại đây, rồi còn chúc phúc và ban thưởng tiền, vàng, bạc, lụa... khi họ sắp sửa trở về nước(82). Bên cạnh đó, chúa Nguyễn cho phép cư dân người Việt từ khắp nơi tự do về Hội An làm ăn.
Nhờ vậy mà người từ Thanh Hóa, Quảng Trị, Quảng Ngãi... đến Hội An sinh sống và lập nghiệp rất đông. Trong khi người Nhật và người Hoa cũng được tự do lập phố như Phố Nhật, phố Khách, vân vân. Chúa Nguyễn cho phép người ngoại quốc đến xứ Đàng Trong lập cơ sở sản xuất và xuất cảng, miễn là đóng thuế đầy đủ cho triều đình Thuận Hóa. Đồng thời, nhiều đoàn thương thuyền Việt Nam cũng được chúa cho phép ra nước ngoài làm ăn, miễn là đóng thuế đầy đủ. Tại Hội An chúa Nguyễn đã cho thiết lập nhiều sở thu thuế, và dùng người Hoa trong việc thu thuế nầy. Chính nhờ nguồn thu thuế, lợi tức buôn bán đã trở thành chỗ dựa lớn nhất về kinh tế cho các chúa Nguyễn. Tuy nhiên, đến sau đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, đặc biệt là các vị vua triều Nguyễn đã hoàn toàn đi ngược lại với chính sách của các tiên đế, chánh sách đã từng giúp cho các chúa Nguyễn có được một nguồn lợi kinh tế đáng kể khi phải đương đầu với chúa Trịnh ngoài Bắc. Kể từ vua Gia Long, sau năm 1802, chánh sách bế quan tỏa cảng được triệt để áp dụng. Từ đó chẳng những những vùng đất trù phú bậc nhất như Hội An và Thanh Hà mất dần tánh cách quan trọng của một thương cảng, một trung tâm vận chuyển hàng hóa quốc tế, mà kinh tế Đại Việt cũng suy thoái, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước Tây phương có cớ xâm chiếm Việt Nam.
Người Long Hồ
Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011
Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved.
Chú Thích:
(1) Phong Khê.
(2) Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán tại sông Bạch Đằng giành lại độc lập cho dân tộc sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, từ năm 110 trước Tây lịch đến năm 939 sau Tây lịch.
(3) Tức là cổ thành Indrapura bây giờ thuộc tỉnh Quảng Nam.
(4) Bây giờ là vùng phía Bắc tỉnh Thừa Thiên.
(5) Năm 1642, công ty Đông Ấn tưởng xứ Đàng Trong đã đánh giết thủy thủ của họ nên đã cho tàu đổ bộ lên đánh Đà Nẳng. Lúc đó Nguyễn Phúc Tần còn là Thế Tử đã đưa quân ra đánh dẹp, đốt cháy thuyền giặc và giết chết thuyền trưởng Vanliesvelt.
(6) Vùng Ninh Hòa ngày nay.
(7) Nay là Diên Khánh.
(8) Vùng Sài Gòn ngày nay.
(9) Nay là quận Điện Bàn.
(10) Nay là vùng Nha Trang.
(11) Còn có tên là sông Krong Pha hay sông Đa Nhim.
(12) Đó là Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết.
(13) Mùa hè năm 1658 vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân đưa quân sang đánh phá vùng Prei Nokor. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai Nguyễn Phúc Yến vào đánh dẹp và bắt được Ông Chân, nhưng sau đó chúa tha cho về tiếp tục làm quốc vương xứ Chân Lạp.
(14) Khoảng tháng hai âm lịch năm Giáp Dần.
(15) Thuộc vùng đất Biên Hòa ngày nay.
(16) Kế Bà Tử làm khám lý và các con của Kế Bà Ân làm đô đốc.
(17) Như vậy đến năm 1698 quan Thống Suất Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã chính thức tuyên bố chủ quyền của Việt Nam trên miền đất Thủy Chân Lạp với đầy đủ những thủ tục hành chánh mà chưa có dân tộc nào đã làm trước đây, như đặt địa danh, kiểm tra dân số và thiết lập bộ máy hành chánh cho đến ngày nay.
(18) Ngày nay thuộc tỉnh Bình Định.
(19) Mạc Cửu vốn quê ở Lôi Châu thuộc Trung Hoa, vì bất mãn với nhà Mãn Thanh nên đưa toàn bộ gia nhân và thuộc hạ sang xin vua Chân Lạp cho khai khẩn vùng đất Hà Tiên. Sau niều lần bị quân Xiêm La đánh phá mà không nhận được sự trợ giúp nào từ vua Chân Lạp, nên ông bèn xin nội thuộc xứ Đàng Trong.
(20) Ngày nay là vùng Cà Mau.
(21) Ngày nay là vùng Cần Thơ.
(22) Ngày nay là vùng Sóc Trăng và Bạc Liêu.
(23) Bấy giờ bao gồm các vùng Hà Tiên, Phú Quốc, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cần Thơ.
(24) Theo Đại Nam Việt Sử Toàn Thư và Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, Nguyễn Kim là con trai trưởng của Trừng Quốc Công Nguyễn văn Lựu, một công thần đời Hậu Lê. Nguyễn Kim sanh năm Mậu Tý 1468, được cha truyền dạy cho văn võ song toàn. Đời vua Lê Chiêu Tông ông được ban tước An Thành Hầu và phong chức Tả Vệ Điện Tiền Tướng Quân, trấn nhậm vùng Thanh Hóa ngày nay. Năm Đinh Hợi, sau khi Mạc Đăng Dung giết Lê Cung Hoàng để soán ngôi nhà Lê, Nguyễn Kim không phục nên đem hết binh tướng vùng Thanh Hóa chạy qua Ai Lao. Tại đây ông chiêu mộ thêm binh tướng rồi trở về đánh họ Mạc để khôi phục nhà Lê, nhưng thất bại nên ông phải chạy sang Ai Lao lần nữa. Năm Quý Tỵ 1533, ông tìm được dòng dõi con cháu nhà Lê là Lê Ninh, con vua Lê Chiêu Tông, ông bèn tôn Lê Ninh lên ngôi lấy hiệu là Lê Trang Tông. Cũng tại Ai Lao, Trịnh Kiểm đến ra mắt Nguyễn Kim và được ông gả con gái là Ngọc Bảo và phong cho làm Tướng quân. Vua Lê Trang Tông về Thanh Ba, nay là Thanh Hóa, chiêu mộ binh sĩ, rồi cho người sang Ai Lao gọi Nguyễn Kim về điều binh khiển tướng. Vua Lê phong cho ông chức Thái Tể Đô Tướng Tiết Chế tướng sĩ chư dinh thủy bộ. Từ đó binh tướng nhà Lê đánh đâu thắng đó khiến quân nhà Mạc phải rút lui về cố thủ Thăng Long. Trong khi sự nghiệp khôi phục Thăng Long đang ở trong tầm tay thì vào tháng 5 năm Ất Tỵ 1545, ông bị hàng tướng của nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Ông được vua Lê truy tặng tước Chiêu Huân Tổng Công, mộ táng trên núi Thiên Tôn, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Về sau nhà Nguyễn tôn ông là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế. Nguyễn Kim có ba người con, con gái lớn là Ngọc Bảo, con trai kế là Nguyễn Uông, và con trai út là nguyễn Hoàng. Sau khi Nguyễn Kim qua đời, vua Trang Tông phong cho con trưởng của Nguyễn Kim là Lãng Xuyên Hầu Nguyễn Uông làm Tả Tướng, và con thứ là Hạ Khê Hầu Nguyễn Hoàng làm Đoan Quận Công, lại phong cho Dực Quận Công Trịnh Kiểm làm Lượng Quốc Công. Năm 1554, Trịnh Kiểm đưa quân vào đánh nhà Mạc và chiếm lại hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.
(25) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 69, năm Mậu Ngọ, tức năm 1558 sau Tây Lịch, tức đầu niên hiệu Chính Trị vua Lê Anh Tông sai Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng đem quân lính tại bản dinh vào trấn thủ Thuận Hóa, để đề phòng bọn giặc cướp phương Đông. Nguyễn Hoàng cùng với trấn thủ Quảng Nam là Trần Quận Công Bùi Tá Hán cứu tế viện trợ cho nhau mỗi khi cần đến. Mọi việc ở hai địa phương ấy, không kể việc lớn hay nhỏ, đều được ủy thác cho hai quan trấn thủ. Năm thứ 11 niên hiệu Chính Trị, tức năm Mậu Thìn 1568 sau Tây Lịch, Trần Quận Công Bùi Tá Hán qua đời, triều đình cử Nguyên Quận Công Nguyễn Bá Quýnh thay chức trấn thủ Quảng Nam. Đến năm 1570, vua Lê Anh Tông triệu hồi Nguyễn Bá Quýnh về kinh đô, rồi sai Nguyễn Hoàng kiêm hành trấn thủ hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam.
(26) Theo Đại Nam Thực Lục, Nguyễn Hoàng là con trai út của Nguyễn Kim và bà Nguyễn thị Mai. Ông là em của bà Nguyễn thị Ngọc Bảo và Nguyễn Uông. Khi cha ông được vua Lê Trang Tông giao cho điều khiển binh quyền, ông bèn xin theo cha đánh nhà Mạc. Ngay từ lúc đó ông đã được binh sĩ dưới quyền kính mến. Sau khi cha ông bị Dương Chấp Nhất đầu độc, binh quyền lọt vào tay Trịnh Kiểm. Dầu đã nắm hết binh quyền trong tay, Trịnh Kiểm vẫn nơm nớp lo sợ tài trí của hai anh em Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, nên ít lâu sau đó Trịnh Kiểm đã hại chết Nguyễn Uông một cách mờ ám. Sau đó lại tìm cách ám hại luôn Nguyễn Hoàng, nhưng Nguyễn Hoàng đã được lời khuyên của cậu là Nguyễn Ư Kỷ cũng như lời đoán vận mạng của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân”, ông bèn xin chị là Ngọc Bảo nói giúp với Trịnh Kiểm cho ông được vào trấn nhậm vùng Thuận Hóa. Trịnh Kiểm đồng ý ngay vì nghĩ rằng Thuận Hóa là vùng đất mới với đầy sơn lam chướng khí, lại nữa nơi đó đang có quan quân nhà Mạc trấn giữ, nghĩ rằng Nguyễn Hoàng chẳng làm gì được, lại muốn mượn tay họ Mạc giết Nguyễn Hoàng để tránh tiếng cho mình. Chính vì thế mà Trịnh Kiểm vội vàng tâu lên vua Lê xin cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Chẳng bao lâu sau khi vào trấn nhậm Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã hoàn toàn thu phục lòng người, ông đã chiêu hiền đãi sĩ, ban bố hiệu lệnh nghiêm minh, giảm sưu giảm thuế cho dân chúng, vân vân. Chính vì vậy mà chẳng bao lâu sau đó, những bậc hiền tài đã tìm đến giúp ông rất đông. Từ khi ông vào đây Ái Tử đã nhanh chóng trở thành một nơi đô hội, dân sống ấm no hạnh phúc và tôn xưng ông là Chúa Tiên. Theo Đại Nam Việt Sử Toàn Thư: “Nguyễn Hoàng trị nhậm xứ Thuận Quảng mấy chục năm, chính lệnh khoan hòa, thưởng ban ân huệ, dùng pháp luật công bình, biết khuyên răn bản bộ, cấm trấp những kẻ hung ác. Dân hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam đều cảm lòng, mến đức. Vùng Thuận Quảng từ khi được Nguyễn Hoàng trấn nhậm, đã thay đổi phong tục, chợ búa không nói thách, dân không trộm cắp, nhà không cần đóng cửa; thuyền buôn nước ngoài đến buôn bán tấp nập, giá cả phải chăng, khác buôn ngoại quốc không bị chèn ép giá cả. Quân lệnh nghiêm cẩn. Mọi người đều đồng lòng ra sức giúp chúa. Từ đó, nhà Mạc không dám dòm ngó. Khắp trong cõi người người đều được yên ổn làm ăn.” Trong khi đó sách Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn có viết thêm: “Hằng năm đều nộp thuế má để giúp việc dân việc nước, triều đình vua Lê chúa Trịnh cũng được nhờ.” Năm 1573, vua Lê Thế Tông mới lên ngôi, phong cho Nguyễn Hoàng chức Thái Phó. Ngoài mặt thì như vậy, nhưng trong lòng thì Nguyễn Hoàng chăm lo củng cố quân sự để bắt đầu công cuộc xây dựng đế nghiệp cho dòng họ Nguyễn. Năm thứ 14 niên hiệu Hoằng Định, năm Quý Sửu, tức năm 1613 sau Tây Lịch, Nguyễn Hoàng qua đời, tại vị 56 năm, hưởng thọ 89 tuổi.
(27) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 71, Nguyễn Hoàng là người có oai phong và mưu lược, mật xét người rất nghiêm minh, nên người ta không thể lừa dối được. Hơn nữa, Nguyễn Hoàng thi hành chánh sự một cách khoan dung hòa nhã, tiết chế quân đội rất nghiêm minh và kính cẩn, cho nên quân đội cũng như nhân dân hai xứ Thuận Quảng đều tín phục ông. Hằng năm, Nguyễn Hoàng cho chuyển vận thuế khóa ra giúp cho quân nhân và nhà nước, triều đình được nhờ rất nhiều.
(28) Năm Kỷ Hợi, 1599, vua Lê Thế Tông băng hà, vua Kính Tông lên nối ngôi và phong cho ông làm chức Hữu Thừa Tướng. Tuy ông rất được vua Lê kính trọng, nhưng lúc nào cũng lo sợ âm mưu của họ Trịnh. Về phía Trịnh Tùng, mặc dầu gọi ông bằng cậu, nhưng lúc nào cũng muốn giữ ông lại Thăng Long chứ không muốn thả hổ về rừng, nên đã tìm đủ mọi cách giam lỏng ông ở Thăng Long. Năm Canh Tý, 1600 nhân có vụ khởi loạn của nhóm Phan Ngạn, Bùi văn Khuê, và Ngô Đình Nghĩa ở Đàng Trong, ông tâu với vua Lê cùng Trịnh Tùng cho ông đem quân vào dẹp loạn. Và để Trịnh Tùng khỏi nghi ngờ, ông bèn gả con gái Ngọc Tú cho con của Trịnh Tùng là Trịnh Tráng, đồng thời ông cũng để hai con là Nguyễn Hải và Nguyễn Hắc ở lại làm con tin. Nghĩ rằng Nguyễn Hoàng khó mà làm phản được, với lại lúc đó ngoài Nguyễn Hoàng ra không ai có khả năng đi vào Đàng Trong dẹp loạn nên Trịnh Tùng chấp thuận cho ông mang quân đi. Lần ra đi nầy ông nhứt quyết không trở lại nữa. Tuy nhiên, theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 73, năm đầu niệu Thận Đức vua Lê Kính Tông, tức năm Canh Tý 1600 sau Tây Lịch, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng âm mưu xui khiến thủy quân Phan Ngạn, Bùi văn Khuê và Ngô đình Nghĩa làm phản ở cửa biển Đại An, để có cớ tự mình xin đi đánh giặc. Nhưng đến nơi, Nguyễn Hoàng giả vờ đánh giặc không thắng, rồi do đường biển trở về Thuận Hóa [vì Nguyễn Hoàng đã thấy rõ Trịnh Tùng quá kiêu hoạnh và xảo trá, nên nhứt quyết không hợp tác với họ Trịnh, và tìm cách trở về Thuận Hóa để rồi chống lại họ Trịnh].
(29) Khang Lộc, Lệ Thủy và Minh Linh.
(30) Võ Xương, Hải Lăng, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang và Điện Bàn.
(31) Lệ Giang, Hà Đông và Hy Giang.
(32) Bình Sơn, Mộ Hóa và Nghĩa Giang.
(33) Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn.
(34) Chúa Nguyễn Phước Nguyên đã tỏ ra thông minh, kiệt xuất và tài trí hơn người ngay từ thuở nhỏ. Lớn lên ông đã chứng tỏ tài năng của mình và luôn theo cha đánh nam dẹp bắc. Ông luôn luận bàn với các tướng sĩ về việc quân binh, và thường những ước đoán về binh bị của ông đều đúng. Chính vì thế mà Nguyễn Hoàng rất an lòng khi giao phó đại nghiệp cho Nguyễn Phước Nguyên. Mà thật vậy, chúa Nguyễn Phước Nguyên đã không phụ lòng tin của cha mình, ông cũng tỏ ra là một người toàn tâm toàn ý lo cho đại nghiệp như cha, nhứt là việc xây dựng cho xứ Đàng Trong một vương triều hoàn toàn độc lập với xứ Đàng Ngoài và tạo nên mối giao hảo tốt đẹp với các lân quốc phương Nam như Champa và Chân Lạp. Ngay sau khi lên ngôi chúa xong, thấy dinh chúa cũ đóng ở Vũ Xương chật hẹp lại thêm địa thế trống trải, nên chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho dời vào xã Phước Yên, huyện Quảng Điền để lập dinh mới. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên vẫn tiếp tục chính sách chiêu hiền đãi sĩ của cha mình, nhờ vậy mà ông đã gặp được Đào Duy Từ, một thiên tài quân sự của xứ Đàng Trong thời đó. Theo sách sử ghi lại thì Đào Duy Từ nguyên là con nhà xướng ca nên không được đi thi để ra làm quan ở xứ Đàng Ngoài. Chính vì vậy mà ông bất mãn bỏ xứ ra đi. Nghe nói xứ Đàng Trong trọng đãi người hiền bất kể giai cấp nào, nên ông đã lên đường vào Nam, được chúa Nguyễn Phúc Nguyên trọng vọng nên ông đã hết lòng phục vụ chúa Nguyễn. Có lẽ hơn ai hết, chúa Nguyễn Phước Nguyên hiểu rõ mục tiêu hàng đầu của cha mình khi quyết định vào Nam với lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ‘Hoành Sơn Nhất Đái -- Vạn Đại Dung Thân’. Cũng như cha mình, trong lúc quân đội xứ Đàng Trong còn trong giai đoạn chuẩn bị và củng cố, chúa Nguyễn Phước Nguyên rất khéo léo và kín đáo trong mọi chuyện để tránh sự hoài nghi của chúa Trịnh ở xứ Đàng Ngoài, vì trên danh nghĩa và cả trên thực tế, tước vị của cả Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phước Nguyên đều do vua Lê, chúa Trịnh tấn phong. Các ông vẫn là những vị tướng tiên phong của triều đình bổ nhậm đi trấn giữ mặt Nam nhằm ổn định dư đảng của nhà Mạc ở phía Nam như các vùng Sơn Nam và Hải Dương...Chính vì vậy mà dù bên trong có ý ly khai với Đàng Ngoài, ngoài mặt chúa Nguyễn Hoàng vẫn luôn giữ hòa khí, vì sự xây dựng xứ Đàng Trong tuy đã có cơ sở trong bước đầu, nhưng sự tồn tại của vương triều xứ Đàng Trong hồi nầy rất mong manh. Và đây cũng chính là điều mà chúa Tiên Nguyễn Hoàng rất quan ngại, nên trước khi qua đời ông đã trăn trối rất kỹ càng với triều thần và ngay cả với Nguyễn Phước Nguyên. Để thực hiện lời trăn trối của cha mình, chúa Nguyễn Phước Nguyên đã từng bước ly khai với xứ Đàng Ngoài và cuối cùng cắt hẳn quan hệ bằng cách không nộp thuế, cũng không về chầu vua Lê. Kết quả là chúa Trịnh của xứ Đàng Ngoài đã cất quân Nam chinh vào năm 1627, nhưng đã thất bại trước quân lực đang lớn mạnh của xứ Đàng Trong. Kể từ năm 1627 đến năm 1672, quân đội xứ Đàng Ngoài đã 6 lần tấn công vào Nam, và một lần quân xứ Đàng Trong đánh ra Bắc. Đây là cuộc nội chiến ác liệt và bất phân thắng bại, nhưng phải thành thật mà nói sau 6 lần tấn công với những tổn thất nặng nề, phần thất bại đã nghiêng hẳn về miền Bắc. Tháng 10 năm Ất Hợi, đầu niên hiệu Dương Hòa vua Lê Thần Tông, tức năm 1635 sau Tây Lịch, Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên qua đời, tại vị được 22 năm, thọ 73 tuổi. Sau khi qua đời, ông được truy tặng Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế.
(35) Khi nhậm chức trấn thủ đất Quảng Nam, Nguyễn Phước Nguyên đã nhận ra vị trí hết sức đặc biệt của vùng mà trước đây đã từng mang tên là Chiêm Động nầy, vì trong phạm vi của vùng đất nầy chẳng những có đế đô của vương quốc Champa trong vùng Trà Kiệu-Mỹ Sơn, mà bờ biển cát trắng với nhiều voi vịnh rất tốt cho việc xây dựng một hải cảng như Đà Nẳng, Hội An, vân vân. Khi ông về đây trấn nhậm thì dinh Quảng Nam đã là một vùng đất tốt, cư dân đông đúc và sản vật giàu có rồi. (36) Chúa Nguyễn đã ra lệnh cho cảng Hội An phải tiếp đón tất cả tàu buôn ngoại quốc, không phân biệt xuất xứ. Nhờ vậy mà vào thế kỷ thứ 17, Hội An đã trở thành một trong những thành phố cảng lớn trong vùng Đông Nam Châu Á. Tập nhật ký của một giáo sĩ người Ý tên Christoforo Borri đã ghi lại như sau về Hội An: “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng, chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam... Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật, người Hoa chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói. Thành phố nầy gọi là Faifo, một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố trong đó, một phố người Hoa và một phố người Nhật. Mỗi phố có một khu vực riêng, có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Người Hoa có luật lệ và phong tục của người Hoa và người Nhật cũng vậy.” Hiện tại Hội An vẫn còn tồn tại một khu phố cổ của người Nhật.
(37) Năm 1627, để có cớ đánh chiếm xứ Đàng Trong, Trịnh Tráng sai sứ giả bộ phụng chỉ vua Lê sắc phong cho chúa, nhưng âm mưu nầy bị Đào Duy Từ phát hiện. Tuy nhiên, Đào Duy Từ khuyên chúa cứ việc nhận sắc chỉ rồi tương kế tựu kế. Chúa nhận sắc phong và hứa sẽ hàng năm nộp thuế tuế cống như trước đây. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong “Việt Sử Giai Thoại”, Tập 6, TPHCM: NXB Giáo Dục, 2003, tr. 72-76, đây là lần hiến kế đầu tiên của Đào Duy Từ vào năm 1630. Nghe lời khuyên của Đào Duy Từ, sau khi phái đoàn sứ giả họ Trịnh về Bắc, chúa cho luyện tập binh sĩ và cho quân trấn giữ nơi hiểm yếu. Chúa còn ra lệnh cho Đào Duy Từ xây dựng các lũy Trường Dục, Nhật Lệ và Trường Sa một cách kiên cố. Năm Chanh Ngọ, 1630, chúa sai làm một cái mâm hai đáy, bên trên để phẩm vật, còn bên dưới để sắc phong cùng một bài thơ bốn câu với ngụ ý là chúa muốn trả lại sắc phong cho vua Lê (Dư bất thụ sắc), rồi sai Lại Văn Khuông đi sứ ra Thăng Long. Sau khi phái bộ của Văn Khuông đã lên đường trở về Nam thì chúa Trịnh mới phát giác ra là mâm có hai đáy, ngụ ý chúa Nguyễn muốn trả lại sắc phong cho vua Lê. Năm 1633, chúa Trịnh Tráng rước vua Lê Nam chinh nhưng bị xứ Đàng Trong đánh bại phải rút lui về bên kia sông Linh Giang (tức sông Gianh). Từ đó hai bên phân tranh và coi nhau như hai nước thù địch, nên cả hai bên đều xây dựng hào lũy để phòng thủ tại đây. Trong khi đó, về tình hình xứ Đàng Ngoài thời đó, theo Alexandre DeRhodes trong “Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài”, Hồng Nhuệ Việt dịch, TPHCM, 1994, tr. 17, từ dân số đông đúc có lợi cho nhà chúa, vì khi cần, chúa có thể thành lập nhiều sư đoàn quân sĩ như chúa muốn và như chúa đã làm cách đây không lâu khi chúa đưa quân giao chiến với chúa Đàng Trong ở ngay bên cạnh, chủ ý khôi phục lại những lãnh thổ đấng tiên vương đã chiếm cứ được trước đây, bây giờ là lãnh thổ của Đàng Trong. Khi chuẩn bị như vậy chúa Đàng Ngoài dự tính chỉ trong thời gian ba hoặc bốn tháng là chúa Đàng Trong phải ra hàng và trao trả lãnh thổ cho chúa hoặc ra khỏi đất nước. Thế nhưng đụng phải sức kháng cự lâu dài và quyết liệt nên chúa Đàng Ngoài đành phải rút quân vì sợ đạo binh chết đói. Công cuộc khôi phục Đàng Trong dĩ nhiên phải bỏ một cách nhục nhã. Chúa đã thất bại vì mộ quân quá nhiều nên không đủ lương thực nuôi họ cho cuộc đánh chiếm xứ Đàng Trong.
(38) Tức vùng Sài Gòn ngày nay.
(39) Em trai của vua Chey Chetta II.
(40) Theo Cristophoro Borri trong quyển “Xứ Đàng Trong Năm 1621”, TPHCM: NXB TPHCM, 1998. Nơi trang 19, ông đã ghi lại như sau: “Nước lụt làm cho đất đai mầu mỡ và phì nhiêu nên mỗi năm có ba vụ lúa, đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ vất vả để sinh sống, ai cũng sung túc.” Từ trang 19 đến trang 27, ông đã đề cập đến đủ thứ trái cây ngon từ cam, chanh, chuối, thanh long, đủ loại dưa, bí, ngô, mít, sầu riêng, lê, mận, trầu cau, dừa, và đủ thứ rau tươi, vân vân. Về gia súc thì có trâu, bò, dê, heo, gà, vịt, vv... Ngoài ra còn có đủ loại chim, bồ câu, ngỗng, sếu, thịt thơm ngon mà mấy xứ khác ở châu Âu không có. Ngành ngư nghiệp rất thịnh vượng và cá ở đây có hương vị tuyệt diệu và rất đặc biệt mà không nơi nào có thể so sánh được với xứ Đàng Trong.
Nơi trang 31, ông đã ghi lại như sau: “Còn về tất cả những gì thuộc đời sống hằng ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất là áo mặc, họ có rất nhiều tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày. Vì thế đã hơn một lần tôi rất thích thú khi thấy đàn ông, đàn bà khuân vác đá, đất, vôi và những vật liệu tương tự mà không hề cẩn thận giữ cho áo đẹp và quí để họ mặc khỏi rách hay bẩn. Điều nầy không có gì lạ nếu biết rằng có những cây dâu cao lớn trong những thửa ruộng rộng lớn người ta hái để nuôi tằm. Số lượng tơ tằm xứ Đàng Trong dư dùng mà còn bán sang cho Nhật Bản và Lào. Thứ lụa nầy tuy không mịn nhưng bền và chắc hơn lụa Tàu. Nhà cửa đền đài, mặc dầu chỉ bằng gỗ, nhưng không thua kém bất cứ nước nào vì gỗ xứ nầy là gỗ quí nhất hoàn cầu.” Nơi trang 36, ông đã ghi lại như sau: “Sau cùng, xứ Đàng Trong có rất nhiều mỏ kim khí quí và nhất là vàng. Các thương gia Âu châu đã cả quyết rằng xứ Đàng Trong có nhiều của cải hơn Trung Quốc và rất dồi dào về mọi thứ.” Nơi trang 88, ông đã nói xứ Đàng Trong có rất nhiều thứ thuận lợi cho sinh hoạt con người, vì thế mà dân xứ nầy không ưa và không có khuynh hướng đi đến các nơi khác để buôn bán, cũng như không bao giờ họ đi xa ra biển khơi. Cuối cùng nơi trang 91, ông viết: “Còn về hải cảng thì thật là lạ lùng, chỉ trong khoảng hơn một trăm dặm mà người ta đếm được hơn sáu mươi cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền.”
(41) Năm Ất Hợi, 1635, được tin chúa Sãi băng hà, người em của Nguyễn Phúc Lan là Dương Nghĩa Hầu Nguyễn Phúc Anh đang trấn giữ Quảng Nam, kéo quân ra mưu toan phản nghịch. Để thực hiện âm mưu của mình, trước đó Phúc Anh đã cho người ra Bắc xin thần phục chúa Trịnh và yêu cầu chúa Trịnh đem quân vượt sông Linh Giang đánh vào còn y sẽ kéo quân từ Quảng Nam đánh ra, khiến cho quân của chúa Nguyễn phải phân tán làm đôi, ắt là chiến thắng. Ban đầu chúa Nguyễn Phúc Lan muốn nhường ngôi chúa lại cho Phúc Anh, nhưng sau khi nghe chú là Phúc Khuê nói rõ tội của Phúc Anh đã cấu kết với họ Trịnh, chúa Nguyễn Phúc Lan bèn cử chú là Nguyễn Phúc Khuê cùng với Nguyễn Phúc Yên đem quân đánh dẹp và bắt được Phúc Anh. Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 80, năm 1635, khi Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp, bấy giờ Nguyễn Phúc Anh, nguyên là trấn thủ Quảng Nam nổi lên làm loạn. Phúc Anh xây đắp lũy tại cửa biển Câu Đê và dàn thủy quân tại cửa biển Đà Nẳng. Nguyễn Phúc Lan sai đem bộ binh đánh lũy Câu Đê và thủy binh lặn qua khỏi vũng Sơn Trà giao chiến với thủy quân của Phúc Anh. Sau đó quân binh tiến về Quảng Nam bắt sống Phúc Anh.
(42) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 83, năm 1653, Phúc Tần truyền lệnh cho các tướng hiệu phải sửa sang khí giới, đạn dược, quân nhu, chiến cụ; và hạn cho đến cuối tháng ba phải đem tới xã An Cựu để chúa kiểm điểm duyệt xét, đặng biết rõ sự đủ, thiếu, bền, hư như thế nào mà định việc thưởng phạt các tướng hiệu. Cũng trong năm ấy, người nước Chiêm Thành xâm phạm và quấy nhiễu tỉnh Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc Hầu làm chức Tổng binh, Xá Nhân là Chiêu Võ Hầu Nguyễn Hữu Dật làm chức Tham mưu đem ba ngàn quân đi đánh dẹp. Khi quân chúa Nguyễn đến Phú Yên vào ngày mồng 3 tháng 4, đang đêm leo qua núi Thạch Bia và đèo Bố Dương, rồi gấp rút đem quân đến trại vua Bà Tranh (Bà Chiêng) phóng hỏa tấn công. Khi vua Chiêm chạy đến sông Yên Triều thì sai con là Xác Bà Ân dâng lễ vật và xin đầu hàng. Chúa Phúc Tần ưng thuận, rồi cho chia lại cương giới. Chúa Nguyễn lấy phần đất từ phía đông sông Yên Triều đến Phú Yên, thiết lập hai phủ Thái Khang và Diên Ninh, rồi đặt trấn thủ tại Thái Khang. Về phía tây sông Yên Triều là nước Chiêm Thành.
(43) Theo Đại Nam Thực Lục, Tập I, tr. 63, Năm Ất Mùi, 1655, tướng của chúa Trịnh là Trịnh Đào cho quân vượt sông Gianh cướp phá vùng phân ranh. Trấn thủ dinh Bố Chính là Phù Dương cấp báo về. Tháng 11, năm 1655, chúa Nguyễn Phúc Tần phong cho Nguyễn Hữu Tiến làm Tiết Chế và Nguyễn Hữu Dật làm Đốc Chiến, dẫn đại quân vượt sông Gianh tấn công phía bắc Bố Chính. Quân của xứ Đàng Trong đánh rất mạnh nên chỉ trong một thời gian ngắn đã chiếm được 7 huyện. Tuy nhiên, nhận thấy xứ Đàng Ngoài cũng quyết tâm lấy lại 7 huyện vừa mất, nên quân đội xứ Đàng Trong đã rút về bờ Nam sông Gianh. Đây là lần tấn công duy nhất của chúa Nguyễn ra đất Bắc.
(44) Có sách viết là Tôn Thất Yến.
(45) Tuy nhiên, theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 88, năm 1658, vua xứ Chân Lạp là Nặc Ong Chân xâm phạm biên cảnh của ta, nên chúa Phúc Tần sai Trấn biên dinh phó tướng Yến Võ Hầu, Cai Đội Xuân Thắng Hầu, Minh Lộc Hầu làm Tham mưu đem ba ngàn quân đi đánh Cao Miên. Chỉ trong vòng hai mươi ngày, quân đội xứ Đàng Trong đã tới thành Nam Vang, bắt sống Ong Chân cùng các thổ tù các bộ lạc đưa về Quảng Bình. Sau đó chúa tha cho Ong Chân trở về Cao Miên.
(46) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 97, Chúa Nguyễn Phúc Tần trị vì được 39 năm (1648-1687), hưởng thọ 68 tuổi, tư thụy là “Đại Nguyên Soái Tổng Quốc Chính Dũng Triết Vương”.
(47) Theo Đại Nam Thực Lục và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thì viết tên chúa là Nguyễn Phúc Trăn, trong khi Phủ Biên Tạp Lục lại viết tên chúa là Nguyễn Phúc Trân. Ngược lại, theo Nguyễn Phúc Tộc Gia Phả thì ghi chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Thái, không có tên nào là Nguyễn Phúc Trăn, mà chỉ có Nguyễn Phúc Trân, em kế của chúa, tước Cương Quận Công. Ở đây chúng tôi dựa theo tài liệu của Đại Nam Thực Lục, vì tài liệu nầy là tài liệu lịch sử đáng tin cậy nhất của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn. Theo Đại Nam Thực Lục, Tập I, tr.96, chúa Nguyễn Phúc Trăn sanh năm 1649, dầu là con thứ hai, nhưng người con cả của chúa Nguyễn Phúc Tần đã mất, nên Phúc Trăn rất được sự tin yêu của chúa Nguyễn Phúc Tần. Năm 20 tuổi, Phúc Trăn đã được phong làm Tả Thủy Dinh Phó Tướng Hoằng Âm Hầu. Lúc chúa Nguyễn Phúc Tần mất, ông lên nối ngôi năm 39 tuổi. Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 97, khi lên ngôi, chúa Nguyễn Phúc Trân tự xưng là “Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quốc Trọng Sự Thái Phó Hoằng Quốc Công”.
Chúa Nguyễn Phúc Trân là người khoan hòa và hay chuộng kẻ sĩ.
(48) Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, sau khi giết tướng Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến di quân sang đóng ở Nan Khê, nay là vùng Kiến Hòa và cho đắp lũy, đúc thêm súng đạn và đóng thêm tàu thuyền chuẩn bị chiến tranh với xứ Đàng Trong. Tuy nhiên, theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 98, sau khi giết tướng Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến dời đồn đến Lạch Than, nơi hiểm hóc chỉ để đi cướp bóc mà thôi.
(49) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 98, vua nước Cao Miên cũng cho xây đắp một cái lũy ở về phía nam cầu ngã ba Khu Bích, thuộc thành phố Nam Vang, và làm một cái bè nổi có khóa sắt để ngăn chặn ngang cửa biển. Nặc Thu còn tạo chiến thuyền, đúc đại bác, và ngăn cấm những khách buôn bán qua lại nơi đây.
(50) Mặc dầu Hoàng Tiến đã giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch, nhưng chúa Nguyễn Phúc Tần vẫn còn muốn lợi dụng sức mạnh của quân Long Môn để đánh Nặc Thu trước khi trị tội Hoàng Tiến.
(51) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 98, quân của chúa Nguyễn vào đến cửa Mỹ Tho, quan quân đóng tại Lạch Sầm, khiến người dụ dỗ Hoàng Tiến đến hội họp với bên địch ở giữa sông, rồi phát phục binh tấn công phá được lũy ở phíc nam cầu Ngã Ba. Hoàng Tiến bỏ chạy rồi chết. Các tướng sĩ thừa thắng xông lên vây hãm thành Nam Vang. Nặc Thu khiến sứ thần ra đầu hàng. Về sau chúa Nguyễn đồng ý để cho Nặc Thu dâng lễ triều cống hàng năm.
(52) Đồ triều cống bao gồm 30 thớt voi, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, và 6 con tê giác.
(53) Tên thụy hiệu là “Đại Nguyên Soái, Tổng Quốc Chính Hoằng Nghĩa Vương”.
(54) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 101, Nguyễn Phúc Chu sanh năm 1675, tước hiệu là Tộ Phúc Hầu Quốc Công. Ông là con trưởng của chúa Nguyễn Phúc Trăn, lên nối ngôi chúa khi mới 17 tuổi. Khi lên ngôi ông tự xưng là “Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh Thái Phó Tộ Quốc Công”. Ông có tánh ham học và chữ viết rất tốt, lại có văn võ tài lược, tự hiệu là “Thiên Túng Đạo Nhân”.
(55) Tức Bình Thuận bây giờ. (56) Nay là vùng Bà Rịa.
(57) Nay là vùng Đồng Nai-Biên Hòa.
(58) Cù lao Phố-Biên Hòa.
(59) Nay là vùng Mỹ Tho.
(60) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 102, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh mang quân vào làm Kinh Lược xứ Đồng Nai, đặt phủ Gia Định. Còn hai huyện Phước Long và Tân Bình thì được thiết lập làm dinh Trấn Biên và Phiên Trấn.
(61) Ngày nay là vùng Biên Hòa.
(62) Ngày nay là vùng Gia Định.
(63) Tức vùng chợ Thủ của Long Xuyên ngày nay.
(64) Cù lao mang tên quan Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh.
(65) Nặc Ông Thâm nghi Nặc Ông Yêm làm phản, nên đem quân đánh dẹp. Sau đó Nặc Ông Thâm lại cầu viện với quân Xiêm La giúp mình để chống lại quân của chúa Nguyễn. Nặc Ông Yêm chạy về Gia Định. Chúa Nguyễn sai Cai Cơ Nguyễn Cửu Vân hành quân sang Nam Vang để đánh đuổi quân Xiêm La, và đưa Nặc Ông Yêm trở về thành La Bích. Từ đó về sau nầy, thỉnh thoảng Nặc Ông Thâm cứ kéo quân Xiêm La về đánh phá thành La Bích.
(66) Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, quyển 2, tr. 82, trong khi nhà Thanh cướp ngôi của nhà Minh, một người Quảng Đông tên là Mạc Cửu đã bỏ sang Chân Lạp, thấy ở phủ Sài Mạt có nhiều người từ các nước đến buôn bán, bèn mở sòng đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu mộ những lưu dân để lập ra 7 xã, gọi là Hà Tiên. Đến khi Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ làm chức đô đốc, tiếp tục trấn giữ đất Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho Học để khai hóa đất Hà Tiên.
(67) Trước khi qua đời, chúa Nguyễn Phúc Chu đã tự đặt thụy hiệu là “Đại Nguyên Soái, Tổng Quốc Chính Tĩnh Uyên Vương”.
(68) Có sách viết là Nguyễn Phúc Trú, tuy nhiên, theo Nguyễn Phúc Tộc Gia Phả, không có người con nào của chúa Nguyễn Phúc Chu tên là Phúc Trú hay Phúc Chú cả, mà chỉ có Nguyễn Phúc Thụ thôi. Trong khi đó, theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 107, chúa Nguyễn Phúc Chu có 46 người con, Nguyễn Phúc Chú là con trưởng lên nối nghiệp. Ông sanh năm 1696, lúc đầu giữ chức Cai Cơ Đỉnh Thịnh Hầu, đến năm 1715 được thăng chức Chưởng Cơ. Khi lên ngôi, ông tự xưng là “Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh Thái Phó Đỉnh Quốc Công”, có biệt hiệu là “Vân Tuyền Đạo Nhân”. Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú lên ngôi lúc 30 tuổi, là người có văn võ song toàn. Năm 1731, vua Cao Miên là Nặc Tha sai quân Chân Lạp tiến đánh vùng Gia Định. Chúa sai Thống Suất Trương Phúc Vinh cùng Nguyễn Cửu Triêm chia làm hai mặt tiến đánh Chân Lạp, Nặc Tha thua chạy. Năm 1732, quân xứ Đàng Trong tiến chiếm Sài Côn, rồi sau đó tiến lên vây hãm Nam Vang, Nặc Tha xin dâng đất Long Hor (Long Hồ) và Mesa (Mỹ Tho) cho Trần Đại Định, lập nên Dinh Long Hồ.
(69) Trước khi qua đời, chúa tự đặt thụy hiệu là “Đại Nguyên Soái, Tổng Quốc Chính Tuyên Đạt Vương.”
(70) Chúa Nguyễn Phúc Khoát sanh ngày 18 tháng 8 năm Giáp ngọ, 1714, con trai trưởng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Trú và bà Trương thị Thơ, được phong làm Chưởng Dinh Dinh Tiền Thủy Chính Hầu, làm phủ đệ tại Cơ Tiền Dực ở Dương Xuân. Năm 1738, sau khi chúa Nguyễn Phúc Trú mất, ông lên nối ngôi lúc mới 25 tuổi. Khi lên ngôi, chúa tự xưng là “Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh Thái Phó Hiểu Quốc Công”, lại có biệt hiệu là “Từ Hàng Đạo Nhân”. Sau khi lên ngôi, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho sửa sang cung điện, cải cách nội tri, ngoại giao và phong tục tập quán. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát còn tìm mọi cách để mở rộng bờ cõi về phương Nam. Nhân khi nội tình Chân Lạp rối ren, Võ Vương cho quân xứ Đàng Trong sang giúp đở ổn định. Để nhớ ơn, các vua Chân Lạp dâng hiến đất đai cho ngài nhiều nhất so với các đời chúa khác. Nặc Nguyên hiến vùng Tầm Bôn Lôi Lạp năm 1756. Năm 1757, Nặc Nhuận hiến vùng Preah Trapeang và Bassac, tức vùng Trà Vinh, Sóc Trăng và một phần của Bạc Liêu ngày nay. Cùng năm đó, Nặc Tôn lại dâng phủ Kompong Luông, tức vùng đất Tầm Phong Long, một dãy đất bao la bạt ngàn từ Châu Đốc, Thất Sơn, An Giang, Sa Đéc, và một phần của Vĩnh Long nằm dọc theo bờ sông Hậu. Tuy nhiên, vào cuối đời Võ Vương, ngài lại vướng vào tửu sắc, bỏ bê triều chánh, nên quyền hành rơi vào tay lộng thần Trương Phúc Loan, đưa đến việc quân Trịnh dẫ dàng tiến vào đánh chiếm Phú Xuân và việc Tây Sơn khởi nghĩa sau nầy.
(71) Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, Ủy Ban Dịch Thuật Bộ Giáo Dục VNCH, 1972, tập I, quyển nhất, tr. 104, năm 1753, nhân cơ hội vua Chân Lạp là Nặc Ông Nguyên lấn hiếp người Côn Man, chúa Nguyễn bèn sai Thiện Chánh Hầu làm Thống suất và Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh làm Ký Lục, đem quân sang đánh Chân Lạp. Mùa đông năm 1754, quân của chúa Nguyễn chia ra làm hai đạo, Nguyễn Cư Trinh đốc suất đạo cơ binh, do con sông phía đông tiến vào Cao Miên. Đạo quân nầy đi đến đâu cũng được nhân dân lướt theo như ngọn cỏ bị lướt theo cơn gió. Bốn phủ thuộc nước Cao Miên là Xuy Lạp, Tầm Đôn, Ba Cầu và Nam Vang đều đầu hàng quan quân của chúa Nguyễn. Đạo quân của Nguyễn Cư Trinh sau đó họp lại với quân của Thiện Chánh Hầu ở xứ Lê Yêm thuộc nước Cao Miên. Vua nước Cao Miên là Nặc Ong Nguyên phải chạy trốn vào phủ Tầm Trị Thu.
(72) Những vùng nầy bao gồm Phú Quốc, Long Xuyên (Cà Mau), Rạch Giá, Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Sóc Trăng và Bạc Liêu).
(73) Tức vùng Tân An và Gò Công ngày nay.
(74) Ngày nay là vùng Trà Vinh và Sóc Trăng.
(75) Theo Châu Đạt Quan trong “Chân Lạp Phong Thổ Ký”, TPHCM: NXB Văn Nghệ, 2007, tr. 21-25, phần Tổng Tự, nước Chân Lạp (Tchen La) cũng gọi là Chiêm Lạp. Ông Châu Đạt Quan đã ghi lại như sau: “Rời bến Ôn Châu ở Triết Giang và hướng thẳng Đinh Vị chúng tôi đi qua hải cảng của các châu Phước Kiến, tỉnh Quảng Đông và hải ngoại. Chúng tôi vượt biển Bảy Hòn Đảo. Đây là ranh giới của Trung Hoa với An Nam, đi ngang qua xứ An Nam và đến xứ Chiêm Thành. Ở đấy nhờ thuận gió, trong vòng mười lăm ngày ta có thể đến thị trấn Chân Bồ, đó là biên giới xứ Chân Lạp. Đoạn, từ Chân Bồ theo hướng Khôn Thân chúng tôi đi ngang qua biển Côn Lôn và vào cửa sông. Sông nầy có hàng chục ngả, nhưng ta chỉ có thể vào được cửa thứ tư, các ngả khác có nhiều bãi cát thuyền lớn không đi được. Nhìn lên bờ chúng tôi thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng, thoáng qua không dễ gì biết được lối vào, thế nên các thủy thủ cho rằng rất khó mà tìm đúng cửa sông. Từ đó, thuận dòng nước tiến lên hướng bắc chừng mười lăm ngày, chúng tôi vào một lãnh thổ tên là Tra Nam (Tch’a-Nan), một trong những lãnh thổ của Chân Lạp. Ở Tra Nam, chúng tôi sang một chiếc thuyền nhỏ, thuận dòng đi qua thôn Bán Lộ và Phật thôn (Pursat), vượt biển nước ngọt Đạm Dương (Biển Hồ), hơn mười ngày đến một nơi gọi là Can Bàn, cách châu thành năm mươi lý. Khoảng từ ngày 1 đến ngày 19 tháng 8 năm 1296 chúng tôi triều kiến quốc vương Chân Lạp và trở về thuyền nhổ sào trong tháng 6 năm 1297, và ngày 30 tháng 8 năm 1297, chúng tôi cập bến Tứ Minh.” Ông cũng nói thêm: “Không chắc rằng chúng tôi biết rõ tất cả chi tiết về phong tục và sự việc xãy ra trong quốc gia nầy, nhưng ít nhất chúng tôi cũng có thể phân biệt được những điểm đại lược.” Năm thế kỷ sau đó, những chi tiết nầy cũng được khẳng định bởi sử gia Lê Quý Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục. Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, được viết vào khoảng năm những năm 1776-1778, vùng rừng rậm hoang vu nầy là vùng cư trú của nhiều nhóm dân tộc thiểu số mà người Việt gọi họ là người “Man”, hay người “Mọi”. Những dân tộc nầy gồm nhiều bộ tộc khác nhau như Mạ, Stiêng, Mnông, Cơ Ho, và Chu Ru...Họ chỉ sinh sống tại các vùng cao ráo, còn các vùng khác hầu như bị bỏ hoang. Từ các cửa biển đi vào như Cần Giờ, Soài Rạp... toàn là những đám rừng hoang vu, đầy thú dữ. Chính vì thế mà các chúa Nguyễn cho phép cư dân thời đó được quyền tự do khai khẩn và sở hữu đất đai, cũng như thâu nhận những người “Mọi” làm đầy tớ trong việc khai khẩn và phát triển “điền” của mình.
(76) Vùng Hà Tiên bấy giờ bao gồm các vùng Cần Bột, Linh Quỳnh, Sài Mạt, Hương Úc, Hà Tiên, Phú Quốc, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cần Thơ.
(77) Biên giới đầu tiên của xứ Đại Việt với Champa là vùng giữa Nghệ An và Hà Tĩnh. Đến năm 1069, vua Lý Thánh Tôn tiếp nhận 3 châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính, nay thuộc các vùng giữa Quảng Bình và Quảng Trị. Năm 1306, vua Trần Anh Tông tiếp nhận hai châu Ô và Lý, nay là các vùng Thuận Châu và Hóa Châu của Thừa Thiên. Năm 1402, Hồ Quý Ly chiếm đất Chiêm Động, nay thuộc tỉnh Quảng Nam và đất Cổ Lũy, nay thuộc vùng Quảng Ngãi. Năm 1470, vua Lê Thánh Tôn chiếm kinh đô Đồ Bàn, và sáp nhập Đồ Bàn và Đại Chiêm vào đất Cỗ Lũy, vùng giữa Bình Định và Phú Yên ngày nay. Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng chiếm vùng Phú Yên. Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho phép lưu dân vào khai khẩn vùng Prei Nokor tức Sài Gòn sau nầy. Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần chiếm vùng Khánh Hòa. Năm 1679, chúa Nguyễn cho phép các cựu thần nhà Minh vào khai khẩn các vùng Biên Hòa và Mỹ Tho. Năm 1693, chúa Nguyễn Phúc Chu chiếm các vùng Phan Rí và Phan Rang. Từ đó vương quốc Champa coi như mất hẳn. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược hai vùng Phước Long và Tân Bình. Năm 1708, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên. Năm 1732, Nặc Tha chính thức dâng lên chúa Ninh Vương hai vùng đất Meso và Long Ghor, nay là Mỹ Tho và Vĩnh Long. Năm 1756, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng lên chúa chúa Võ Vương các vùng Tầm Bôn và Lôi Lạp, tức là Tân An và Gò Công ngày nay. Năm 1757, Nặc Nhuận, vì muốn lên ngôi vua nên đem dâng hai xứ Preah Trapeang và Bassac, ngày nay là vùng Trà Vinh và Sóc Trăng. Năm 1759, Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long, ngày nay là các vùng Sa Đéc, Cao Lãnh, Long Xuyên, Châu Đốc và một phần của Rạch Giá.
(78) Con trai của hoàng thái tử Hiệu.
(79) Thái tử thứ hai của chúa Nguyễn Phúc Khoát.
(80) Con trai thứ 16 của Nguyễn Phúc Khoát. (81) Nay là vùng Thanh Hà thuộc Huế.
(82) Theo Li Tana trong Xứ Đàng Trong, Lịch Sử Kinh Tế và Xã Hội Thế Kỷ 17 và 18, số tàu buôn Trung Hoa đến Hội An nhiều gấp đôi số tàu buôn của nước nầy đến Nam Dương, và gấp ba lần ghe tàu của xứ nầy đến xứ Đàng Ngoài. Hàng năm từ tháng 2 đến tháng 5, các chúa Nguyễn còn cho mở Hội Chợ Quốc Tế tại Hội An. Vào thời đó, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lục, đồ gốm sứ, gỗ, và thủ công mỹ nghệ cũng phát triển cực thịnh.
***
Nhấp vào Links:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét